Tri thức là cái đáng nguyền rủa, là tai ương, là cái xấu xa.
Chính là qua tri thức mà con người trở nên bị chia lìa khỏi cái toàn thể. Tri
thức tạo ra khoảng cách.
Bạn đi qua hoa dại trên núi non, bạn không biết nó là gì,
tâm trí bạn chẳng có gì để nói về nó, tâm trí im lặng.
Bạn nhìn vào hoa, bạn thấy hoa, nhưng không tri thức nào nảy
sinh trong bạn - có điều kì diệu, có cái bí ẩn.
Hoa có đấy, bạn có đấy. Qua điều kì diệu mà bạn không tách
biệt, bạn được nối liền.
Nếu bạn biết rằng đây là hoa hồng hay hoa cúc vạn thọ, hay
cái gì đó khác, chính cái hiểu biết đó cắt rời bạn.
Hoa có đó, bạn có đây, nhưng không có cầu nối - bạn biết!
Tri thức tạo ra khoảng cách. Bạn càng biết nhiều khoảng cách càng lớn; bạn càng
biết ít khoảng cách càng bé. Và nếu bạn trong khoảnh khắc không biết gì, không
có khoảng cách, bạn được nối liền.
Bạn yêu một người đàn bà hay đàn ông - cái ngày bạn yêu
không có khoảng cách. Chỉ có mỗi điều kì diệu, xúc động, kích động, cực lạc -
nhưng không có tri thức.
Bạn không biết người đàn bà này là ai. Không có tri thức, chẳng
có gì chia rẽ bạn. Do đó có cái đẹp của những khoảnh khắc ban đầu yêu đương
này. Bạn đã sống với người đàn bà này chỉ mới hai mươi bốn giờ; tri thức đã nảy
sinh. Bây giờ bạn có một số ý tưởng về người đàn bà này: bạn biết cô ấy là ai,
có hình ảnh. Hai mươi bốn giờ đã tạo ra quá khứ. Hai mươi bốn giờ này đã để lại
dấu vết trong tâm trí: bạn nhìn vào cùng người đàn bà này, không còn cùng bí ẩn
nữa. Bạn đang đi xuống đồi, cái đỉnh đó đã mất.
Hiểu điều này là hiểu được nhiều lắm. Hiểu rằng tri thức
phân chia, tri thức tạo ra khoảng cách, là hiểu chính bí mật của thiền. Thiền
là trạng thái không biết. Thiền là không gian thuần khiết, không bị tri thức quấy
nhiễu. Thế đấy, câu chuyện kinh thánh thế mà lại đúng - rằng con người đã sa
ngã qua tri thức, bởi việc ăn trái cây hiểu biết. Không kinh sách nào khác của
thế giới vượt hơn điều đó. Chuyện ngụ ngôn đó là lời cuối cùng; không chuyện ngụ
ngôn nào khác đạt tới đỉnh cao và sáng suốt đó.
Có vẻ phi lí thế khi nói con người đã sa ngã qua tri thức.
Điều đó có vẻ phi lí bởi vì logic là một phần của tri thức. Logic là tất cả
trong việc hỗ trợ cho tri thức. Điều đó có vẻ phi lí, bởi vì logic là nguyên
nhân gốc rễ cho sa ngã của con người. Một người tuyệt đối logic, tuyệt đối lành
mạnh, bao giờ cũng lành mạnh, không bao giờ cho phép có bất kì điều phi lí nào
trong cuộc sống mình, là người điên. Cái lành mạnh cần được cân bằng bởi cái
không lành mạnh; logic cần được cân bằng bởi phi logic.
Các cái đối lập gặp nhau và cân bằng. Một người chỉ có lí
trí là vô lí - người đó sẽ bỏ lỡ nhiều lắm. Trong thực tế người đó sẽ cứ bỏ lỡ
tất cả những cái đẹp đẽ và tất cả những cái đúng đắn. Người ấy sẽ thu thập những
cái tầm thường, cuộc sống người ấy sẽ là cuộc sống trần tục. Người ấy sẽ là
phàm nhân.
Câu chuyện ngụ ngôn kinh thánh đó có sáng suốt sâu xa. Tại
sao con người sa ngã qua tri thức? - bởi vì tri thức tạo ra khoảng cách, bởi vì
tri thức tạo ra cái ‘tôi’ và cái ‘bạn’, bởi vì tri thức tạo ra chủ thể và khách
thể, người biết và cái được biết, người quan sát và cái được quan sát. Tri thức
về cơ bản là bệnh tinh thần phân liệt; nó tạo ra chia chẻ. Và thế thì không có
cách nào bắc cầu qua điều đó. Đó là lí do tại sao con người càng trở nên có tri
thức, người đó càng ít tôn giáo hơn. Con người càng được giáo dục, càng ít có
khả năng tiếp cận Thượng đế.
Jesus là phải khi ông ấy nói, “Chỉ trẻ con mới có thể vào
vương quốc của ta”... chỉ trẻ con. Đâu là phẩm chất đứa trẻ có và bạn làm mất?
Đứa trẻ có phẩm chất của không tri thức, của hồn nhiên. Nó nhìn với ngạc nhiên,
mắt nó hoàn toàn trong sáng. Nó nhìn sâu, nhưng nó không có định kiến, không
phán xét, không có ý tưởng tiên quyết. Nó không phóng chiếu, do đó nó nhận ra
cái đang đấy.
Hôm trước chúng ta đã nói về phân biệt giữa thực tại và chân
lí. Trẻ con biết chân lí, bạn chỉ biết thực tại. Thực tại là cái bạn đã tạo ra
quanh mình - phóng chiếu, ham muốn, suy nghĩ. Thực tại là diễn giải của bạn về
chân lí. Chân lí đơn giản là cái đang đấy; thực tại là cái bạn đã đi tới hiểu
biết - nó chính là ý tưởng của bạn về chân lí. Thực tại bao gồm nhiều thứ, tất
cả đều tách biệt. Chân lí bao gồm chỉ một năng lượng vũ trụ. Chân lí bao gồm
cái một, thực tại bao gồm cái ‘nhiều’. Thực tại là đám đông, chân lí là toàn vẹn.
Trước khi chúng ta đi vào lời kinh này, điều này cần phải trở
thành nền tảng: rằng tri thức là cái đáng nguyền rủa.
J. Krishnamurti đã nói, “Phủ định là im lặng.” Phủ định cái
gì? - phủ định tri thức, phủ định tâm trí, phủ định mối bận tâm thường xuyên
này ở bên trong bạn; để tạo ra không gian nhàn rỗi. Khi bạn nhàn rỗi, bạn hài
hoà với cái toàn thể. Khi bạn bận bịu bạn trượt ra khỏi hài hoà. Do đó, bất kì
khi nào xảy ra việc bạn có thể đạt tới một khoảnh khắc im lặng, có vui vẻ mênh
mông. Trong khoảnh khắc im lặng đó cuộc sống có ý nghĩa, trong khoảnh khắc im lặng
đó cuộc sống có vẻ hùng vĩ vượt ra ngoài lời nói. Trong khoảnh khắc đó cuộc sống
là điệu vũ. Trong khoảnh khắc đó thậm chí cái chết có tới thì cuộc sống vẫn cứ
nhảy múa và mở hội, bởi vì khoảnh khắc đó không biết gì ngoài vui vẻ. Khoảnh khắc
đó là vui vẻ, nó là phúc lạc.
Tri thức phải bị phủ định - nhưng không phải bởi vì tôi nói
như thế hay bởi vì J. Krishnamurti nói như thế hay bởi vì Phật Gautam đã nói
như thế. Nếu bạn phủ định bởi vì tôi đang nói như thế, thế thì bạn sẽ phủ định
tri thức của bạn, và bất kì cái gì tôi đang nói cũng sẽ trở thành tri thức của
bạn ngay chỗ đầu tiên; bạn sẽ thay thế nó. Việc phủ định phải không tới từ tâm
trí, nếu không thì tâm trí sẽ rất thủ đoạn. Thế thì bất kì cái gì tôi nói cũng
đều trở thành tri thức của bạn, bạn bắt đầu níu bám lấy nó. Bạn ném đi thần tượng
cũ của mình và bạn thay thế chúng bằng thần tượng mới. Nhưng đấy vẫn là trò
chơi cũ với lời lẽ mới, ý tưởng mới, ý nghĩ mới.
Thế thì làm sao phủ định được tri thức? Không phải bởi tri
thức khác: chỉ cần nhìn vào trong sự kiện rằng tri thức tạo ra khoảng cách, chỉ
nhìn vào trong sự kiện này một cách mãnh liệt, toàn bộ, là đủ. Không phải là bạn
phải thay thế nó bằng một cái gì đó khác; sự mãnh liệt đó là ngọn lửa, sự mãnh
liệt đó sẽ biến tri thức của bạn thành tro bụi. Sự mãnh liệt đó là đủ. Sự mãnh
liệt đó là cái vẫn được biết là ‘sáng suốt’. Sáng suốt sẽ đốt cháy tri thức của
bạn, và nó sẽ không bị thay thế bởi tri thức khác. Thế thì có cái trống rỗng,
shunyata. Thế thì có cái không, bởi vì thế thì không có nội dung; có chân lí
không bị xáo lộn, không bị bóp méo.
Bạn phải thấy điều tôi đang nói, bạn đừng học điều tôi đang
nói. Tại đây, ngồi với tôi hàng ngày, lắng nghe tôi, đừng bắt đầu thu thập tri
thức. Tại đây, lắng nghe tôi, đừng bắt đầu tích trữ. Lắng nghe tôi nên là kinh
nghiệm trong sáng suốt. Bạn nên lắng nghe với sự mãnh liệt, với tính toàn bộ, với
nhiều nhận biết nhất có thể được cho bạn. Trong chính nhận biết đó bạn sẽ thấy
một điểm, và chính việc thấy đó là biến đổi. Không phải là bạn phải làm điều gì
đó khác về sau; chính bản thân việc thấy đem tới chuyển hoá. Nếu nỗ lực nào đó
là cần tới, điều đó đơn giản chỉ ra bạn đã lỡ. Nếu ngày mai bạn đến tôi và hỏi
tôi, “Tôi đã hiểu rằng tri thức là cái đáng nguyền rủa, rằng tri thức tạo ra
khoảng cách. Bây giờ làm sao để vứt bỏ nó?” - thế thì bạn lỡ. Nếu cái ‘làm sao’
nảy sinh, thế thì bạn đã lỡ. Cái ‘làm sao’ không thể nảy sinh, bởi vì cái ‘làm
sao’ đang đang đòi hỏi thêm tri thức. Cái ‘làm sao’ đang đòi hỏi phương pháp,
kĩ thuật: “Phải làm gì đây?” Và sáng suốt là đủ; nó không cần được giúp đỡ bởi
bất kì nỗ lực nào. Ngọn lửa của nó quá đủ để thiêu đốt tất cả tri thức bạn mang
bên trong mình. Chỉ thấy đúng vấn đề thôi.
Lắng nghe tôi, đi cùng tôi. Lắng nghe tôi, cầm tay tôi và đi
vào trong không gian mà tôi đang cố gắng giúp bạn đi vào. Và thấy cái tôi đang
nói, đừng tranh biện. Đừng nói có, đừng nói không. Đừng đồng ý, đừng không đồng
ý. Chỉ cùng với tôi trong khoảnh khắc này - và bỗng nhiên sáng suốt có đó. Nếu
bạn lắng nghe một cách chăm chú... và bởi việc chăm chú tôi không có ý nói tập
trung; bởi chăm chú tôi đơn giản ngụ ý bạn đang lắng nghe với nhận biết, với cởi
mở. Bạn ở đây, bây giờ, với tôi. Đó là điều tôi muốn nói bởi chăm chú: bạn
không ở đâu khác.
Bạn không so sánh trong tâm trí điều tôi đang nói với ý nghĩ
cũ của bạn. Bạn không so sánh chút nào, bạn không đánh giá. Bạn không có đó để
đánh giá bên trong, trong bạn, dù điều tôi đang nói là đúng hay không, hay nó
đúng đến đâu.
Mới hôm nọ tôi đã nói với một người tìm kiếm. Anh ta có phẩm
chất của người tìm kiếm, nhưng bị trĩu nặng bởi tri thức. Trong khi tôi đang
nói với anh ta thì mắt anh ta trở nên đẫm lệ. Trái tim anh ấy vừa mới sắp mở
ra, và trong chính khoảnh khắc đó tâm trí nhào vô và phá huỷ toàn bộ cái đẹp của
nó. Anh ta chỉ vừa mới hướng tới trái tim và cởi mở, nhưng ngay lập tức tâm trí
đã vào. Nhưng giọt nước mắt đó vừa mới ló ra, đã biến mất. Mắt anh ta thành ráo
hoảnh. Điều gì đã xảy ra? - Tôi đã nói điều gì đó mà anh ta có thể không đồng
ý. Anh ta đã đồng ý với tôi, cho tới điểm đó. Thế rồi tôi đã nói điều gì đó đi
ngược lại với nền tảng Do Thái của anh ta, đi ngược lại Kabbala, và ngay lập tức
toàn bộ năng lượng đã thay đổi.
Anh ta nói, “Mọi thứ đều phải. Bất kì điều gì thầy đang nói
cũng đều phải, chỉ trừ mỗi điều này: rằng Thượng đế không có mục đích, rằng sự
tồn tại tồn tại vô mục đích - với điều này tôi không thể nào đồng ý được, bởi
vì Kabbala nói chính điều ngược lại: rằng cuộc sống có mục đích, rằng Thượng đế
là hướng đích, rằng ngài đang dẫn chúng ta hướng tới định mệnh nào đó, rằng có
đích.”
Anh ta có thể thậm chí còn không nhìn vào điều đó theo cách
này - rằng anh ta đã lỡ trong khoảnh khắc đó bởi vì việc so sánh đã tới. Điều
mà Kabbala nói liên quan gì tới tôi? Khi bạn đang ở cùng tôi, vứt tất cả các
tri thức về Kabbala, về yoga, về mật tông, về cái này cái khác.
Khi bạn đang ở cùng tôi, ở cùng tôi đi. Nếu bạn toàn bộ ở với
tôi... và tôi không nói rằng bạn đang đồng ý với tôi, nhớ lấy. Tôi không nói rằng
bạn đang đồng ý với tôi: không có vấn đề về đồng ý hay không đồng ý. Khi bạn thấy
hoa hồng, bạn có đồng ý với nó hay không đồng ý với nó? Khi bạn thấy mặt trời
lên, bạn đồng ý hay bạn không đồng ý? Khi bạn ngắm trăng ban đêm, bạn đơn giản
thấy nó! Hoặc bạn thấy nó hoặc bạn không thấy nó, nhưng không có vấn đề đồng ý
hay không đồng ý.
Theo cách đó, bạn ở cùng tôi đi; đó là cách ở cùng với thầy.
Chỉ ở với tôi. Tôi không cố thuyết phục bạn về bất kì cái gì. Tôi không cố thay
đổi chính kiến bạn sang lí thuyết nào đó, triết lí, học thuyết, sang nhà thờ
nào đó, không! Tôi đơn giản chia sẻ điều đã xảy ra cho tôi, và trong chính việc
chia sẻ đó, nếu bạn tham gia, điều ấy có thể xảy ra cho bạn nữa. Đấy là sự tiêm
nhiễm. Sáng suốt làm biến đổi.
Khi tôi đang nói tri thức là cái đáng nguyền rủa, bạn có thể
đồng ý hay không đồng ý - và bạn đã lỡ! Bạn chỉ lắng nghe nó thôi, chỉ nhìn vào
trong nó, đi vào trong toàn bộ quá trình của tri thức. Bạn thấy tri thức tạo ra
khoảng cách như thế nào, tri thức trở thành rào chắn như thế nào, tri thức đứng
ở giữa như thế nào, tri thức tăng lên như thế nào và khoảng cách tăng lên như
thế nào, hồn nhiên mất đi như thế nào qua tri thức, cuộc sống trở thành đờ đẫn
như thế nào và đáng chán như thế nào qua tri thức. Bí ẩn mất đi, và với bí ẩn
Thượng đế cũng mất đi.
Bí ẩn biến mất bởi vì bạn bắt đầu có ý tưởng rằng bạn biết.
Khi bạn biết, làm sao bí ẩn có thể có được? Bí ẩn chỉ có thể có khi bạn không
biết. Và nhớ lấy, con người chẳng biết đến một việc! Tất cả những cái mà chúng
ta đã thu thập đều chỉ là rác rưởi.
Điều tối hậu vẫn còn bên ngoài việc nắm bắt. Cái chúng ta
thu thập chỉ là sự kiện, chân lí vẫn còn không được động tới bởi nỗ lực của
chúng ta. Và đó là kinh nghiệm không chỉ của Phật, Krishna, Krishnamurti và
Ramana; đấy là kinh nghiệm ngay cả của Edison, Newton, Albert Einstein. Đấy là
kinh nghiệm của các nhà thơ, hoạ sĩ, vũ công. Tất cả những người thông minh của
thế giới - họ có thể là nhà huyền môn, họ có thể là nhà thơ, họ có thể là nhà
khoa học - đều hoàn toàn đồng ý về một điều: rằng chúng ta càng biết nhiều,
chúng ta càng hiểu rằng cuộc sống là một bí ẩn hoàn toàn. Tri thức của chúng ta
không phá huỷ được cái bí ẩn của nó. Chỉ người ngu mới nghĩ rằng bởi vì họ mới
biết có chút ít, cho nên bây giờ không còn bí ẩn nào trong cuộc sống. Chỉ tâm
trí xoàng xĩnh mới trở nên quá gắn bó với tri thức; tâm trí thông minh vẫn còn ở
trên tri thức. Người ấy dùng nó, chắc chắn dùng nó - nó là có ích, nó là tiện
ích - nhưng người ấy biết rất rõ rằng tất cả những cái đúng đắn đều bị giấu
kín, vẫn còn bị giấu kín. Chúng ta có thể cứ biết và biết, nhưng Thượng đế vẫn
còn chẳng được biết hết.
Lắng nghe với sáng suốt, chú ý, toàn bộ. Và trong chính viễn
kiến đó bạn sẽ thấy cái gì đó, và việc thấy đó làm thay đổi bạn. Bạn không hỏi
làm sao nữa. Đó là ý nghĩa khi Krishnamurti nói, “Phủ định là im lặng.” Sáng suốt
là phủ định. Và khi một cái gì đó bị phủ định và không có gì được đặt vào thay
thế, một cái gì đó đã bị phá huỷ đi và không có gì được đặt vào, được thay thế
vào chỗ của nó, thế thì có im lặng - bởi vì có không gian. Có im lặng bởi vì
cái cũ đã bị ném đi còn cái mới thì chưa được đem tới. Im lặng đó Phật gọi là
shunyata.
Im lặng đó là cái trống rỗng, cái không. Và chỉ cái không đó
mới có thể vận hành trong thế giới của chân lí. Ý nghĩ không thể vận hành ở đó.
Ý nghĩ chỉ làm việc trong thế giới các vật, bởi vì ý nghĩ cũng là vật - tinh tế,
nhưng nó cũng là vật chất. Đấy là lí do tại sao ý nghĩ có thể được ghi lại, đó
là lí do tại sao ý nghĩ có thể được chuyển tiếp, được truyền đạt. Tôi có thể
ném ý nghĩ vào bạn; bạn có thể giữ lấy nó, bạn có thể có nó. Nó có thể được cho
và nhận, nó là chuyển trao được, bởi vì nó là vật. Nó là hiện tượng vật chất.
Cái trống rỗng không thể được đem đi cho, cái trống rỗng
không thể nào bị ném vào bạn được. Bạn có thể tham gia vào nó, bạn có thể đi
vào trong nó, nhưng không ai có thể đem nó cho bạn. Nó là không chuyển trao được.
Và chỉ có cái trống rỗng mới vận hành trong thế giới chân lí. Chân lí chỉ được
biết tới khi tâm trí không có đó. Để biết chân lí thì tâm trí phải dừng lại, nó
phải chấm dứt hoạt động. Nó phải im lặng, tĩnh lặng, không chuyển động.
Ý nghĩ không thể nào vận hành trong chân lí, nhưng chân lí
có thể vận hành qua ý nghĩ. Bạn không thể nào đạt tới chân lí bằng suy nghĩ,
nhưng khi bạn đã đạt tới nó bạn có thể dùng suy nghĩ trong phục vụ của nó. Đó
là điều tôi đang làm, đó là điều Phật đã làm, đó là điều tất cả các thầy đã
làm.
Điều tôi đang nói là ý nghĩ, nhưng đằng sau ý nghĩ này là
cái trống rỗng. Cái trống rỗng đó không do ý nghĩ sản sinh ra, cái trống rỗng
đó vượt ra ngoài ý nghĩ. Ý nghĩ không thể động chạm tới nó được, ý nghĩ thậm
chí không thể nhìn vào nó.
Bạn đã bao giờ quan sát một hiện tượng chưa? - đó là bạn
không thể nào nghĩ được về cái trống rỗng, bạn không thể nào làm cho cái trống
rỗng thành một ý nghĩ. Bạn không thể nào nghĩ về nó, nó là điều không thể nghĩ
được. Nếu bạn có thể nghĩ về nó, nó sẽ không còn là trống rỗng chút nào nữa. Ý
nghĩ phải ra đi để cho cái trống rỗng tới; chúng chưa bao giờ gặp nhau. Một khi
cái trống rỗng đã tới, thì nó có thể dùng mọi loại phương cách để diễn tả mình.
Hiểu thấu là trạng thái của vô ý nghĩ. Bất kì khi nào bạn thấy
cái gì đó, bạn bao giờ cũng thấy khi không có ý nghĩ. Tại đây cũng vậy, lắng
nghe tôi, ở cùng với tôi, đôi khi bạn thấy. Nhưng những khoảnh khắc đó là lỗ hổng,
khoảng hở. Một ý nghĩ đã qua, ý nghĩ khác còn chưa tới, và có lỗ hổng; và trong
lỗ hổng đó một cái gì đó nhoáng lên, một cái gì đó bắt đầu rung động. Âm thanh
đẹp đẽ đó đi tới là do được tạo ra từ cái trống rỗng. Khi bạn có đó, không có ý
nghĩ, thế thì cái gì đó là có thể, lập tức có thể.
Thế thì bạn có thể thấy điều tôi đang nói. Thế thì nó sẽ không
chỉ là lời nói nghe thấy, thế thì nó sẽ trở thành trực giác, hiểu thấu, viễn kiến.
Bạn đã nhìn vào trong nó, bạn đã chia sẻ với tôi.
Hiểu thấu là trạng thái vô suy nghĩ, không ý nghĩ. Nó là lỗ
hổng, khoảng hở trong quá trình suy nghĩ, và trong lỗ hổng đó là cái thoáng
nhìn, chân lí. Từ tiếng Anh trống rỗng bắt nguồn từ một gốc có nghĩa là giải
trí, nhàn rỗi. Nó là một từ hay nếu bạn đi về gốc rễ. Gốc rễ là rất hàm chứa:
nó có nghĩa là giải trí, nhàn rỗi. Bất kì khi nào bạn nhàn rỗi, giải trí, bạn đều
trống rỗng. Và nhớ lấy, câu ngạn ngữ nói rằng tâm trí trống rỗng là xưởng thợ của
quỉ hoàn toàn vô nghĩa.
Chính cái đối lập mới là chân lí: tâm trí bận bịu là xưởng
thợ của quỉ. Tâm trí trống rỗng là xưởng thợ của Thượng đế, không phải là của
quỉ. Nhưng bạn phải hiểu điều tôi ngụ ý bởi ‘trống rỗng’ - giải trí, thảnh
thơi, không căng thẳng, không chuyển động, không ham muốn, không đi đâu cả, chỉ
ở đây, hoàn toàn ở đây. Tâm trí trống rỗng là sự hiện diện thuần khiết. Và tất
cả đều có thể trong sự hiện diện thuần khiết đó, bởi vì toàn bộ sự tồn tại bắt
nguồn từ sự hiện diện thuần khiết đó.
Những cây này trưởng thành lên từ sự hiện diện thuần khiết
đó, những vì sao này được sinh ra từ sự hiện diện thuần khiết đó; chúng ta đang
ở đây - tất cả chư phật đã bắt nguồn từ sự hiện diện thuần khiết này. Trong sự
hiện diện thuần khiết đó bạn là trong Thượng đế, bạn là Thượng đế. Bận bịu, bạn
sa ngã; bận bịu, bạn bị trục xuất ra khỏi vườn Địa đàng. Nhàn rỗi bạn quay trở
lại vườn này, nhàn rỗi bạn quay trở về nhà.
Khi tâm trí không bận bịu bởi thực tại, bởi mọi vật, bởi ý
nghĩ, thế thì có cái đang đấy. Và cái đang đấy là chân lí. Chỉ trong trống rỗng
mới có gặp gỡ, hội nhập. Chỉ trong trống rỗng bạn mới cởi mở với chân lí và
chân lí đi vào trong bạn. Chỉ trong trống rỗng bạn mới trở thành hàm chứa với
chân lí.
Có ba trạng thái của tâm trí. Trạng thái thứ nhất là nội
dung và tâm thức. Bạn bao giờ cũng có nội dung trong tâm trí - ý nghĩ chuyển động,
ham muốn nảy sinh, giận dữ, tham lam, tham vọng. Bạn bao giờ cũng có nội dung
nào đó trong tâm trí; tâm trí chưa bao giờ nhàn rỗi cả. Giao thông cứ tiếp diễn,
ngày tới, ngày đi. Trong khi tỉnh nó có đấy, trong khi ngủ nó có đấy. Trong khi
tỉnh bạn gọi nó là suy nghĩ, trong khi ngủ bạn gọi nó là mơ - cũng vẫn cùng một
quá trình ấy thôi. Mơ có chút ít nguyên thuỷ hơn, đó là tất cả - bởi vì nó nghĩ
dưới dạng hình ảnh. Nó không dùng khái niệm, nó dùng hình ảnh.
Nó nguyên thuỷ hơn; giống như trẻ con nghĩ dưới dạng hình ảnh.
Cho nên trong sách cho trẻ con bạn phải làm bức tranh lớn, mầu sắc, bởi vì
chúng nghĩ qua hình ảnh. Qua hình ảnh chúng sẽ học từ ngữ. Dần dần những hình ảnh
đó trở nên bé dần đi, và thế rồi chúng biến mất. Con người nguyên thuỷ cũng
nghĩ theo hình ảnh.
Ngôn ngữ cổ đại nhất là ngôn ngữ hình ảnh. Tiếng Trung quốc
là ngôn ngữ hình ảnh: nó không có bảng chữ cái. Nó là ngôn ngữ cổ đại nhất.
Trong đêm bạn lần nữa trở thành nguyên thuỷ; bạn quên mất cái phức tạp của ban
ngày và bạn bắt đầu nghĩ theo hình ảnh - nhưng nó là một.
Và hiểu thấu của các nhà phân tâm là có giá trị - rằng người
đó nhìn vào trong giấc mơ của bạn. Thế thì có nhiều chân lí hơn, bởi vì bạn
nguyên thuỷ hơn; bạn không cố gắng lừa dối bất kì ai, bạn chân thực hơn. Ban
ngày bạn có một cá tính bao quanh mình để che dấu mình - hết tầng cá tính nọ đến
tầng cá tính kia. Rất khó để tìm ra con người thật. Bạn sẽ phải đào sâu vào, và
điều đó làm tổn thương, và con người sẽ kháng cự.
Nhưng trong đêm, ngay khi bạn cởi quần áo ra đi ngủ, bạn
cũng cởi bỏ luôn cá tính của mình đi nữa. Nó không cần nữa bởi vì bạn sẽ không
trao đổi với bất kì ai, bạn sẽ một mình trong giường. Và bạn sẽ không trong thế
giới, bạn sẽ tuyệt đối đơn độc trong cõi riêng tư của mình.
Không cần phải che dấu và không cần giả vờ. Đó là lí do tại
sao các nhà phân tâm cứ cố gắng đi vào trong giấc mơ của bạn, bởi vì chúng bầy
tỏ được rõ ràng hơn nhiều về bạn là ai. Nhưng đấy cũng lại là cùng trò chơi được
chơi trong ngôn ngữ khác mà thôi; trò chơi đâu có khác biệt. Đây là trạng thái
thông thường của tâm trí: tâm trí và nội dung, tâm thức cộng với nội dung.
Trạng thái thứ hai của tâm trí là tâm thức không nội dung;
đó chính là điều thiền là gì. Bạn hoàn toàn tỉnh táo, và có lỗ hổng, khoảng hở.
Không ý nghĩ nào đi vào, không có ý nghĩ trước bạn. Bạn không ngủ, bạn tỉnh thức
- nhưng không có ý nghĩ. Đây là thiền. Trạng thái đầu tiên được gọi là tâm trí,
trạng thái thứ hai được gọi là thiền.
Và rồi còn có trạng thái thứ ba. Khi nội dung đã biến mất,
khách thể đã biến mất, chủ thể không thể nào còn lại lâu được - bởi vì chúng tồn
tại cùng nhau. Chúng tạo ra lẫn nhau. Khi chủ thể là một mình thì nó chỉ lơ lửng
đâu đó thêm một chút nữa, giống như còn lại cái đà của quá khứ. Không có nội
dung thì ý thức không thể nào có đó lâu được; nó sẽ không được cần tới nữa, bởi
vì ý thức bao giờ cũng là một ý thức về cái gì đó. Khi bạn nói ‘ý thức’, người
ta có thể hỏi “Về cái gì?” Bạn nói, “Tôi đang ý thức về...” Khách thể đó là cần
thiết, nó là cái phải có cho chủ thể tồn tại. Một khi khách thể đã biến mất, chẳng
bao lâu chủ thể cũng sẽ biến mất. Trước hết nội dung ra đi, thế rồi ý thức biến
mất.
Thế thì trạng thái thứ ba được gọi là samadhi - không nội
dung, không ý thức. Nhưng nhớ lấy, cái không nội dung này, không ý thức này,
không phải là trạng thái vô ý thức. Nó là trạng thái của siêu ý thức, của ý thức
siêu việt. Tâm thức bây giờ chỉ là tâm thức về chính nó. Tâm thức đã biến thành
chính nó; vòng tròn được hoàn chỉnh. Bạn đã về tới nhà. Đây là trạng thái thứ
ba, samadhi; và trạng thái thứ ba này là cái mà Phật ngụ ý bởi shunyata. Trước
hết gạt bỏ nội dung - bạn trở thành nửa trống rỗng, thế rồi gạt bỏ ý thức - bạn
trở thành trống rỗng hoàn toàn. Và cái trống rỗng hoàn toàn này là điều đẹp đẽ
nhất có thể xảy ra, phúc lành lớn nhất.
Trong cái không này, trong cái trống rỗng này, trong cái
không có cái ta này, trong cái shunyata này, có an toàn và ổn định hoàn toàn. Bạn
sẽ ngạc nhiên mà biết về điều này - an toàn và ổn định đầy đủ khi bạn không có
đó. Tất cả mọi sợ hãi đều biến mất... bởi vì sợ hãi cơ bản là đâu? Sợ hãi cơ bản
là sợ cái chết. Tất cả các sợ hãi khác đều chỉ là phản ánh của cái sợ cơ bản
này. Tất cả các sợ hãi khác đều có thể qui về một cái sợ: sợ chết, sợ rằng, “Một
ngày nào đó mình phải biến mất, một ngày nào đó mình phải chết. Mình đang đây,
rồi một ngày sẽ tới khi mình sẽ không còn đó” - điều đó gây khiếp sợ, đó là sợ
hãi.
Để tránh cái sợ đó chúng ta bắt đầu chuyển động theo cách để
cho ta có thể sống lâu nhất có thể được. Và chúng ta cố gắng làm cho cuộc sống
mình thành an toàn - chúng ta bắt đầu thoả hiệp, chúng ta bắt đầu trở nên ngày
một an ninh, an toàn hơn, bởi cái sợ đó. Chúng ta trở nên bị tê liệt, bởi vì bạn
càng an toàn hơn, bạn càng an ninh hơn, thì bạn sẽ càng kém sống động hơn.
Cuộc sống tồn tại trong thách thức, cuộc sống tồn tại trong
khủng hoảng, cuộc sống cần bất an. Nó trưởng thành trong mảnh đất của bất an. Bất
kì khi nào bạn bất an, thì bạn sẽ thấy mình sống động hơn, tỉnh táo hơn. Đó là
lí do tại sao người giầu trở thành đờ đẫn: một loại đần độn và một loại ngẩn
ngơ bao quanh họ. Họ an toàn quá, chẳng còn thách thức nào nữa. Họ an toàn quá,
họ không cần đến thông minh nữa. Họ an toàn quá - vậy họ cần thông minh để làm
gì? Thông minh chỉ cần tới khi có thách thức, thông minh được gợi ra từ thách
thức.
Cho nên do sợ chết chúng ta cố gắng để được an ninh, để có số
dư ngân hàng, để có bảo hiểm, hôn nhân, để có cuộc sống định cư, để có nhà;
chúng ta trở thành một phần của quốc gia, chúng ta gia nhập đảng phái chính trị,
chúng ta gia nhập nhà thờ tôn giáo - chúng ta trở thành người Hindu, người Ki
tô giáo, người Mô ha mét giáo. Có đủ mọi cách để tìm ra an ninh. Có đủ mọi cách
để tìm ra chỗ nào đó mà thuộc vào - quốc gia, nhà thờ. Bởi sợ hãi này mà các
chính khách và tu sĩ khai thác bạn mãi. Nếu bạn không sợ gì, không chính khách,
không tu sĩ nào có thể khai thác bạn được. Chính chỉ do sợ hãi mà ông ta mới có
thể khai thác được bởi vì ông ta có thể cung cấp - ít nhất thì ông ta cũng có
thể hứa - rằng điều này sẽ làm cho bạn an toàn: “Điều này sẽ là an ninh của bạn.
Tôi có thể đảm bảo.” Hàng có thể chẳng bao giờ được giao - đấy lại là việc khác
- nhưng cứ hứa đã... Và lời hứa giữ mọi người bị khai thác, bị áp bức. Lời hứa
giữ mọi người trong nô lệ.
Một khi bạn đã biết cái trống rỗng bên trong này thì không
còn sợ hãi nữa, bởi vì cái chết đã xảy ra rồi. Trong cái trống rỗng đó nó đã xảy
ra. Trong cái trống rỗng đó bạn đã biến mất. Làm sao bạn có thể sợ gì thêm nữa
được? Về cái gì? Về ai? Và ai có thể đáng sợ? Trong cái trống rỗng này tất cả mọi
sợ hãi đều biến mất bởi vì cái chết đã xảy ra. Bây giờ không còn cái chết nào
có thể có nữa. Bạn cảm thấy một loại bất tử, vô thời gian. Cái vĩnh hằng đã tới.
Bây giờ bạn không tìm kiếm an ninh nữa; không cần nữa. Đây là trạng thái của
sannyasin. Đây là trạng thái một người không cần là một phần của một quốc gia,
không cần là một phần của nhà thờ, hay những thứ xuẩn ngốc như thế.
Chỉ khi bạn đã trở thành cái không, bạn mới có thể là chính
mình. Điều này có vẻ như nghịch lí. Và bạn không cần phải thoả hiệp, bởi vì
chính từ sợ hãi và tham lam mà người ta mới thoả hiệp. Và bạn có thể sống trong
nổi dậy bởi vì không có gì để mất cả. Bạn có thể trở thành việc nổi dậy; không
có gì để sợ cả.
Không ai có thể giết bạn, tự mình bạn đã làm điều đó rồi.
Không ai có thể lấy bất kì cái gì khỏi bạn được; bạn đã loại bỏ tất cả những
cái mà có thể lấy đi khỏi bạn. Bây giờ bạn trong cái không, bạn là cái không.
Do đó mới có hiện tượng nghịch lí này: rằng trong cái không này nảy sinh an
ninh lớn, an toàn lớn, ổn định - bởi vì không còn cái chết nào có thể có nữa.
Và với cái chết, thời gian biến mất. Với cái chết thì tất cả
các vấn đề mà đã từng do cái chết và thời gian tạo ra cũng biến mất. Trong thức
tỉnh của tất cả những cái biến mất này, cái còn lại là bầu trời thuần khiết. Bầu
trời thuần khiết này là samadhi, niết bàn. Phật đang nói về điều này.
Những lời kinh này đã được dành cho một trong các đại đệ tử
của Phật, Sariputra*. Tại sao Sariputra? Ngày đầu tiên tôi đã nói cho các bạn rằng
có bẩy bình diện, bẩy bậc của chiếc thang. Bậc thứ bẩy là siêu việt: Thiền, Mật
tông, Đạo. Bậc thứ sáu là siêu việt tâm linh: yoga. Cho tới bậc thứ sáu, phương
pháp vẫn còn quan trọng, ‘làm sao’ vẫn còn là quan trọng. Cho tới bậc thứ sáu,
kỉ luật vẫn còn quan trọng, lễ nghi vẫn còn quan trọng, kĩ thuật vẫn còn quan
trọng. Chỉ khi bạn đạt tới bậc thứ bẩy, bạn mới thấy rằng chẳng cần gì hết.
Sariputra được nói tới trong những lời kinh này bởi vì
Sariputra đã ở trung tâm thứ sáu, bậc thứ sáu. Ông ấy là một trong những đại đệ
tử của Phật. Phật có tám mươi đại đệ tử; Sariputra là một trong những người
chính trong số tám mươi người này. Ông ấy là người hiểu biết nhất quanh Phật.
Ông ấy là học giả lớn nhất quanh Phật. Khi ông ấy tới với Phật, bản thân ông ấy
có năm nghìn đệ tử.
Khi ông ấy tới với Phật lần đầu tiên, ông ấy tới để tranh luận,
để tranh cãi và đánh bại Phật. Ông ấy tới với năm nghìn đệ tử của mình - để gây
ấn tượng. Và khi ông ấy đứng trước Phật, Phật cười to. Và Phật nói với ông ấy,
“Sariputra, ông biết nhiều đấy, nhưng ông chẳng biết gì cả. Ta có thể thấy ông
đã tích luỹ khối lượng tri thức lớn, nhưng ông thì trống rỗng. Ông đã tới để thảo
luận và tranh luận và để đánh bại ta, nhưng nếu ông thực sự muốn thảo luận với
ta, ông sẽ phải đợi ít nhất là một năm.”
Sariputra nói, “Một năm sao? Để làm gì?”
Phật nói, “Ông sẽ phải giữ im lặng trong một năm; điều đó sẽ
là cái giá phải trả. Nếu ông có thể giữ im lặng trong một năm thì ông có thể thảo
luận với ta, bởi vì điều ta định nói với ông sẽ tới từ im lặng. Ông cần có một
chút ít kinh nghiệm về nó. Và ta thấy, Sariputra, ông thậm chí còn chưa nếm trải
một khoảnh khắc im lặng. Ông tràn đầy với tri thức thế, đầu ông nặng nề thế. Ta
cảm thấy thương hại ông, Sariputra. Ông đã mang tải trọng nặng thế trong nhiều
kiếp rồi. Ông là brahmin không chỉ trong kiếp này, Sariputra, ông đã từng là
brahmin trong nhiều kiếp rồi. Và trong nhiều kiếp ông đã mang Veda và các kinh
sách. Nó đã là phong cách sống của ông trong nhiều kiếp... nhưng ta thấy một khả
năng. Ông là người hiểu biết, nhưng vậy mà điều hứa hẹn vẫn có đó. Ông là người
hiểu biết, nhưng tri thức của ông vẫn chưa khoá kín hoàn toàn bản thể ông; vẫn
còn vài cửa sổ để mở. Ta muốn, trong một năm, lau sạch những cửa sổ này, và thế
thì có khả năng cho sự gặp gỡ, cho việc nói chuyện và việc hiện hữu của chúng
ta. Ông ở lại đây một năm đi.”
Điều này thật kì lạ. Sariputra đã từng du hành trên khắp nước,
đánh bại mọi người. Đó là một trong những sự việc ở Ấn Độ: người hiểu biết hay
du hành khắp nước và đánh bại người khác trong những cuộc tranh luận và thảo luận
lớn, những cuộc tranh luận trường kì. Và điều đó đã được coi như là một trong
những sự việc vĩ đại phải làm. Nếu ai đó trở nên thắng lợi trên khắp nước và
người ấy đánh bại tất cả các học giả thì đó là thoả mãn bản ngã lớn lao. Con
người đó được coi là vĩ đại hơn cả vua, hoàng đế. Con người đó được coi là vĩ đại
hơn người giầu có.
Sariputra đã du hành. Và một cách tự nhiên, bạn không thể
nào tự tuyên bố mình là người thắng lợi nếu bạn còn chưa đánh bại Phật. Cho nên
ông ấy đã tới vì điều đó. Cho nên ông ấy nói, “Được thôi, nếu tôi phải đợi một
năm, thì tôi sẽ đợi.” Và trong một năm ông ấy đã ngồi đó trong im lặng với Phật.
Trong một năm, im lặng đã lắng đọng trong ông ấy.
Và sau một năm Phật hỏi ông ta, “Bây giờ chúng ta có thể thảo
luận và ông có thể đánh bại ta, Sariputra. Ta sẽ sung sướng vô cùng được ông
đánh bại.”
Còn ông ấy thì cười lớn và cúi đầu chạm chân Phật và nói,
“Xin thầy điểm đạo cho tôi. Trong một năm im lặng này, lắng nghe thầy, đã có
vài khoảnh khắc khi sáng suốt xảy ra trong tôi. Mặc dầu tôi đã tới như một đối
thủ, tôi đã nghĩ, “Trong khi mình đang ở đây ngồi im suốt một năm, tại sao lại
không lắng nghe con người này, điều người ấy đang nói?” Cho nên từ tò mò mà tôi
bắt đầu lắng nghe. Nhưng đôi khi những khoảnh khắc đó tới và thầy thấm vào tôi,
và thầy chạm tới trái tim tôi, và thầy chơi trên chiếc đàn bên trong tôi, và
tôi đã nghe thấy âm nhạc. Thầy đã đánh bại tôi mà không làm tôi thất bại.”
Sariputra trở thành đệ tử của Phật, và năm nghìn đệ tử của
ông ấy cũng trở thành đệ tử của Phật. Sariputra là một trong những học giả rất
nổi tiếng thời đó. Những lời kinh này nói về Sariputra. Tại đây, này Sariputra,
hình dạng là trống rỗng và chính trống rỗng là hình dạng; trống rỗng không khác
hình dạng, hình dạng không khác trống rỗng; dù hình dạng là gì, đấy cũng là trống
rỗng; dù trống rỗng là gì, đấy cũng là hình dạng; điều này cũng đúng cho cảm
giác, cảm nhận, thôi thúc và tâm thức Tại đây, này Sariputra... Phật ngụ ý gì bởi
‘tại đây’? Ông ấy muốn nói tới không gian của mình. Ông ấy nói, “Từ viễn kiến về
thế giới của ta, từ quan điểm siêu việt, không gian nơi ta hiện hữu và cái vĩnh
hằng nơi ta hiện hữu...”
Tại đây, này Sariputra, hình dạng là trống rỗng và chính trống
rỗng là hình dạng; Đây là một trong những điều khẳng định quan trọng nhất. Toàn
bộ cách tiếp cận phật giáo đều phụ thuộc vào điều này: rằng cái biểu hiện là
cái không biểu hiện; rằng hình dạng không là gì ngoài hình dạng của bản thân
cái trống rỗng, và cái trống rỗng thì cũng chẳng là gì ngoài hình dạng, khả
năng của hình dạng. Phát biểu này là phi logic và dường như hiển nhiên là vô
nghĩa. Làm sao hình dạng có thể là trống rỗng được? Chúng là những điều đối lập.
Làm sao cái trống rỗng có thể là hình dạng được?
Chúng là các cực. Một điều cần phải được hiểu trước khi
chúng ta đi vào trong lời kinh cho đúng: Phật là không logic, Phật là biện chứng.
Có hai cách tiếp cận tới thực tại: một cách là logic. Từ
cách tiếp cận đó, Aristotle là người cha ở phương Tây. Nó đơn giản đi theo đường
thẳng, một đường dứt khoát. Nó không bao giờ cho phép cái đối lập; cái đối lập
phải bị loại bỏ. Cách tiếp cận này nói A là A và không bao giờ là không A. A
không thể là không A được. Đây là một công thức của trường phái logic Aristotle
- và nó có vẻ hoàn toàn phải, bởi vì chúng ta đã từng lớn lên với logic đó
trong nhà trường phổ thông, cao đẳng, đại học. Thế giới này bị Aristotle thống
trị: A là A và không bao giờ là không A.
Cách tiếp cận thứ hai tới thực tại là biện chứng. Tại phương
Tây cách tiếp cận đó được gắn với tên của Heraclitus, Hegel. Quá trình biện chứng
nói: cuộc sống chuyển vận qua các cực, qua những điều đối lập - giống như sông
chảy qua hai bờ đối lập với nhau, nhưng những bờ đối lập đều giữ cho sông tuôn
chảy giữa chúng. Điều này mang tính tồn tại nhiều hơn. Điện có hai cực, dương
và âm. Nếu logic của Aristotle là của sự tồn tại, thế thì điện là rất, rất phi
logic. Thế thì bản thân Thượng đế là phi logic, bởi vì ngài tạo ra cuộc sống mới
từ gặp gỡ của đàn ông và đàn bà, là những phía đối lập - âm và dương, đực và
cái. Nếu như Thượng đế do Aristotle dựng nên theo logic của trường phái
Aristole, theo logic tuyến tính, thế thì đồng dục sẽ là qui tắc còn dị dục sẽ là
truỵ lạc. Thế thì đàn ông sẽ yêu đàn ông và đàn bà sẽ yêu đàn bà. Thế thì các
phía đối lập không thể gặp gỡ.
Nhưng Thượng đế là biện chứng. Tại mọi nơi, các phía đối lập
đều gặp gỡ. Trong bạn, sinh và tử đang gặp gỡ. Tại mọi nơi, các phía đối lập đều
gặp gỡ - ngày và đêm, mùa hè và mùa đông. Gai nhọn và hoa hồng, chúng gặp gỡ;
chúng đều trên cùng một cành, chúng phát xuất từ cùng một nguồn gốc. Đàn ông và
đàn bà, tuổi thanh niên và tuổi già, cái đẹp và cái xấu, thân thể và linh hồn,
thế giới và Thượng đế - tất cả đều là đối lập. Đây là bản giao hưởng của các
phía đối lập. Các phía đối lập không chỉ gặp gỡ mà còn tạo ra bản giao hưởng vĩ
đại - chỉ các phía đối lập mới có thể tạo ra bản giao hưởng. Ngược lại thì cuộc
sống sẽ đơn điệu, không phải là bản giao hưởng.
Cuộc sống sẽ là nhàm chán. Nếu chỉ có một nốt nhạc cứ liên tục
lặp lại, nhất định sẽ tạo ra chán ngấy. Có các nốt đối lập: chính đề gặp phản đề,
tạo ra sự tổng hợp; và trong việc quay lại riêng của nó, tổng hợp lại trở thành
chính đề, lại tạo ra phản đề, và tổng hợp cao hơn tiến hoá tiếp. Đó là cách cuộc
sống chuyển vận.
Vậy cách tiếp cận của Phật là biện chứng, và nó mang tính tồn
tại nhiều hơn, đúng hơn, hợp lệ hơn. Đàn ông yêu đàn bà, đàn bà yêu đàn ông -
thế thì một cái gì đó khác cần phải được hiểu nữa. Bây giờ các nhà sinh học
nói, và các nhà tâm lí cũng đồng ý, rằng đàn ông không chỉ là đàn ông, anh ta
là đàn bà nữa. Và đàn bà không chỉ là đàn bà, cô ấy là đàn ông nữa. Cho nên khi
đàn ông và đàn bà gặp nhau, không chỉ có hai người gặp nhau mà là bốn người gặp
nhau. Đàn ông gặp với đàn bà, nhưng đàn ông có đàn bà ẩn trong mình; đàn bà
cũng có người đàn ông ẩn trong mình; họ cũng gặp nhau nữa.
Gặp gỡ là trên các bình diện kép. Điều ấy thực chất hơn, phức
tạp hơn, xoắn xuýt hơn. Con người là đàn ông và đàn bà, cả hai. Sao vậy? - bởi
vì người đó xuất phát từ cả hai. Một cái gì đó đã được đóng góp cho bạn từ bố bạn
và một cái gì đó đã được đóng góp cho bạn từ mẹ bạn, dù bạn là ai. Đàn ông chảy
trong máu bạn và đàn bà nữa cũng chảy trong máu bạn. Bạn phải là cả hai bởi vì
bạn là gặp gỡ của các cực đối lập. Bạn là tổng hợp! Không thể nào chối bỏ cực
này và chỉ lấy cực kia. Đó là điều đã được làm.
Aristotle đã được tuân theo đúng từng chữ, theo đủ mọi cách,
và điều đó đã tạo ra nhiều vấn đề cho con người - và những vấn đề như thế dường
như không thể nào giải quyết nổi nếu Aristotle được tuân theo. Đàn ông đã được
dạy phải là đàn ông: không bao giờ được tỏ ra có nét nữ tính nào, không bao giờ
được tỏ ra mềm yếu của trái tim, không bao giờ được tỏ ra bất kì sự tiếp thu
nào, bao giờ cũng phải năng nổ. Đàn ông đã được dạy không bao giờ được khóc
lóc, không bao giờ được yếu lòng - bởi vì nước mắt là nữ tính. Đàn bà đã được dạy
không bao giờ được giống như đàn ông theo bất kì cách nào: không bao giờ được tỏ
ra hung hăng, không bao giờ được tỏ ra biểu lộ, bao giờ cũng phải thụ động, tiếp
thu. Điều này là chống lại thực tại, và điều này làm què quặt cả hai.
Trong một thế giới tốt đẹp hơn, với hiểu biết tốt hơn, đàn
ông sẽ là cả hai, đàn bà sẽ là cả hai - bởi vì đôi khi đàn ông cũng cần là đàn
bà. Có những khoảnh khắc anh ta cần mềm mỏng - những khoảnh khắc tế nhị, khoảnh
khắc yêu đương. Và có những khoảnh khắc đàn bà cần phải diễn đạt và hùng hổ -
trong giận dữ, trong phòng ngự, trong nổi dậy. Nếu đàn bà chỉ đơn giản thụ động,
thế thì cô ấy sẽ tự động biến thành nô lệ. Người đàn bà thụ động nhất định trở
thành nô lệ - đó là điều đã xảy ra qua nhiều thời đại. Và người đàn ông hùng hổ,
nhấn mạnh vào tính hùng hổ và không bao giờ tế nhị, nhất định tạo ra chiến
tranh, điên khùng trong thế giới, bạo hành.
Con người đã đánh nhau, liên tục đánh nhau; dường như là con
người tồn tại trên trái đất chỉ để đánh nhau. Trong ba nghìn năm đã có năm
nghìn cuộc chiến tranh! Chiến tranh liên tục chỗ này chỗ khác, trái đất chưa
bao giờ là toàn bộ và lành mạnh... chưa bao giờ có khoảnh khắc nào không chiến
tranh. Hoặc chiến tranh ở Triều tiên, hoặc nó ở Việt Nam, hay ở Israel, ở Ấn Độ,
Pakistan hay Bangladesh; đâu đó việc tàn sát vẫn cứ tiếp tục. Con người phải giết
người. Để còn là con người, anh ta phải giết người. Bẩy mươi nhăm phần trăm
năng lượng được đổ vào trong nỗ lực chiến tranh, trong việc tạo ra nhiều bom
hơn, nhiều bom khinh khí hơn, nhiều bom neutron hơn, vân vân và vân vân. Dường
như là toàn bộ mục đích của con người ở đây trên trái đất này là chiến tranh.
Anh hùng chiến tranh được tôn kính nhất. Các chính khách chiến tranh trở thành
những tên tuổi vĩ đại trong lịch sử: Adolf Hitler, Winston Churchill, Joseph
Stalin, Mao Trạch Đông - những tên tuổi này còn định lưu lại. Tại sao? - bởi vì
họ đã đấu tranh trong những cuộc chiến lớn, họ huỷ diệt. Dù là trong xâm lược
hay trong bảo vệ - đấy không phải là vấn đề - nhưng họ là những kẻ hiếu chiến.
Và chẳng ai biết người nào là kẻ xâm lược - liệu người Đức có là kẻ xâm lược
hay không, tất cả đều phụ thuộc vào người viết ra lịch sử. Bất kì ai thắng đều
sẽ viết ra lịch sử, và người ấy sẽ chứng minh kẻ kia là kẻ xâm lược. Lich sử sẽ
hoàn toàn khác đi nếu như Adolf Hitler thắng lợi. Thế đấy, toà án Nuremburg sẽ
có đấy nhưng các tướng lĩnh và chính khách Mĩ, Anh và Pháp sẽ bị ra toà. Và lịch
sử sẽ do người Đức viết ra; một cách tự nhiên họ sẽ có viễn kiến khác.
Chẳng ai biết cái gì là đúng cả. Một điều là chắc chắn: rằng
con người trút toàn bộ năng lượng của mình vào nỗ lực chiến tranh. Lí do sao? -
lí do là ở chỗ con người đã được dạy chỉ là đàn ông, phần đàn bà của con người
đã bị chối bỏ. Cho nên không đàn ông nào là một tổng thể. Và đàn bà thì cũng vậy
- không đàn bà nào là một tổng thể. Cô ấy đã bị làm cho chối bỏ phần đàn ông của
mình. Khi cô ấy còn là đứa trẻ nhỏ cô ấy đã không thể nào đánh nhau với tụi con
trai, cô ấy không thể nào trèo lên cây; cô ấy phải chơi với búp bê, cô ấy phải
chơi trò chơi ‘nhà cửa’. Đây là một viễn kiến rất, rất méo mó.
Đàn ông là cả hai, đàn bà cũng vậy - và cả hai đều cần tạo
ra một con người hài hoà, chân thực. Sự tồn tại là biện chứng; và các phía đối
diện không chỉ là đối diện, chúng là phần bù cho nhau nữa.
Phật nói: Tại đây, này Sariputra - trong thế giới của ta,
Sariputra, trong không gian của ta, trong thời gian của ta, Sariputra, tại bậc
thứ bẩy của chiếc thang, trong trạng thái vô trí này, trong trạng thái samadhi
này, trong trạng thái của niết bàn này, của chứng ngộ này - hình dạng là trống
rỗng. Đàn ông là đàn bà và đàn bà là đàn ông, và cuộc sống là cái chết và cái
chết là cuộc sống. Các phía đối lập không phải là đối lập, Sariputra; chúng
đang đan xuyên lẫn nhau, chúng tồn tại qua nhau. Để chỉ ra sáng suốt này Phật
nói: Hình dạng là vô hình dạng, và vô hình dạng là hình dạng; cái không biểu lộ
trở thành biểu lộ, và cái biểu lộ lại trở thành không biểu lộ. Chúng không khác
nhau, Sariputra, chúng là một. Cái nhị nguyên chỉ là bề ngoài. Sâu bên trong tất
cả nó là một; trống rỗng không khác hình dạng, hình dạng không khác trống rỗng;
dù hình dạng là gì, đấy cũng là trống rỗng; dù trống rỗng là gì, đấy cũng là
hình dạng; điều này cũng đúng cho cảm giác, cảm nhận, thôi thúc và tâm thức.
Toàn bộ cuộc sống và toàn bộ sự tồn tại bao gồm các cực đối
lập, nhưng chỉ trên bề mặt chúng mới khác nhau. Các phía đối lập này giống như
hai tay tôi: tôi có thể đối lập chúng với nhau, tôi thậm chí có thể xoay xở tạo
ra một loại xung đột, đánh nhau giữa chúng. Nhưng tay trái và tay phải của tôi
cả hai đều là tay tôi. Bên trong tôi, chúng là một. Đây đích thị là trường hợp
này.
Tại sao Phật nói điều này cho Sariputra? - bởi vì nếu bạn hiểu
điều này, lo nghĩ của bạn sẽ biến mất. Thế thì không có lo nghĩ. Cuộc sống là
cái chết, cái chết là cuộc sống. Hiện hữu là một cách hướng tới không hiện hữu,
và không hiện hữu là cách hướng tới hiện hữu. Đấy là cùng một trò chơi. Thế thì
không có sợ hãi, thế thì không có vấn đề gì. Với sáng suốt này, chấp nhận lớn nảy
sinh.
Tại đây, này Sariputra,
mọi pháp đều được đánh dấu bởi trống rỗng;
chúng không được tạo ra hay bị chặn lại,
không vẩn đục hay tinh khiết,
không khiếm khuyết hay hoàn chỉnh
Phật nói: Tất cả các pháp đều tràn đầy sự trống rỗng. Cái
không đó tồn tại ở chính cốt lõi của mọi thứ: cái không đó tồn tại trong cây cối,
cái không đó tồn tại trong tảng đá, cái không đó tồn tại trong ngôi sao. Bây giờ
các nhà khoa học sẽ đồng ý: họ nói rằng khi một ngôi sao sụp đổ, nó trở thành lỗ
đen, cái không. Nhưng cái không đó không chỉ là cái không; nó có sức mạnh mênh
mông, nó rất đầy đặn, tràn ngập.
Khái niệm, giả thuyết về lỗ đen, là có giá trị mênh mông
trong việc hiểu Phật. Một ngôi sao tồn tại trong hàng triệu, hàng tỉ năm, nhưng
một ngày nào đó nó phải chết. Mọi thứ được sinh ra đều phải chết. Con người tồn
tại trong bẩy mươi năm, thế rồi cái gì xảy ra? Cạn kiệt, mệt mỏi, người ấy biến
mất, người ấy rơi trở lại vào số một nguyên thuỷ. Cho nên điều đó đang sắp xảy
ra cho mọi thứ, chẳng chóng thì chầy. Rặng Himalayas sẽ biến mất một ngày nào
đó, rồi trái đất này cũng sẽ biến mất một ngày nào đó, mặt trời này cũng sẽ biến
mất một ngày nào đó. Nhưng khi ngôi sao lớn biến mất, nó sẽ biến đi đâu? Nó sụp
đổ vào trong chính nó. Nó là một khối lượng lớn thế; nó sụp đổ. Giống như một
người đang bước đi - một ông già - ngã trên phố và sụp đổ, nếu bạn để người đó ở
đấy, chẳng chóng thì chầy thân thể người ấy sẽ biến mất, tan rã vào bùn, vào đất.
Nếu bạn để nó ở đó nhiều năm, thế thì xương cũng sẽ biến thành cát bụi.
Người này đã có đó ngày nào đó, bước đi, sống động, yêu
đương, đánh nhau, và bây giờ tất cả đã biến mất trong một lỗ đen. Điều như vậy
cũng xảy ra cho ngôi sao: khi ngôi sao sụp đổ vào chính nó, nó trở thành lỗ
đen. Tại sao nó được gọi là lỗ đen? - bởi vì bây giờ không còn khối lượng nữa,
chỉ còn cái trống rỗng thuần khiết, điều Phật gọi là shunyata. Và shunyata, cái
trống rỗng thuần khiết, mạnh mẽ đến mức nếu bạn tới dưới tác động của nó, gần
nó, trong vùng lân cận của nó, bạn sẽ bị kéo vào, kéo vào trong cái trống rỗng
đó, và bạn cũng sẽ sụp đổ và biến mất.
Với du hành không gian điều này sẽ là vấn đề cho tương lai,
bởi vì có nhiều ngôi sao đã trở thành lỗ đen. Và bạn không thể nào thấy được nó
bởi vì nó là cái không, nó chỉ là sự thiếu vắng. Bạn không thể thấy được nó, và
bạn có thể đi qua nó. Nếu một con tầu không gian tới gần nó, dưới sức hút của
nó, con tầu sẽ đơn giản bị kéo vào. Thế thì không có cách nào để thoát ra khỏi
nó, không thể nào tìm được cách thoát ra khỏi nó. Sức kéo lớn thế, con tầu sẽ
đơn giản bị kéo vào, và nó sẽ biến mất và sụp đổ. Và bạn sẽ chẳng bao giờ nghe
nói về con tầu không gian nữa, nó đã đi đâu, điều gì đã xảy ra cho nó, điều gì
đã xảy ra cho những du khách không gian.
Lỗ đen này là rất, rất giống với khái niệm về cái trống rỗng
của Phật. Tất cả các hình dạng đều sụp đổ và biến mất vào trong lỗ đen, và thế
rồi khi chúng đã nghỉ ngơi thời gian lâu, chúng lại nổi bọt lên - lần nữa ngôi
sao lại được sinh ra. Điều này tiếp diễn: sống và chết, sống và chết - điều này
tiếp diễn. Đây là cách sự tồn tại chuyển vận.
Ban đầu nó trở nên biểu lộ, thế rồi trở nên mệt mỏi, đi vào
cái không biểu lộ, rồi lại phục hồi năng lượng của mình qua nghỉ ngơi, thảnh
thơi, lần nữa lại trở thành biểu lộ. Cả ngày bạn làm việc, bạn trở nên mệt mỏi;
ban đêm bạn biến mất trong giấc ngủ thành một lỗ đen. Bạn tắt đèn, bạn chui
nhanh vào trong chăn, bạn nhắm mắt; thế rồi trong khoảnh khắc tâm thức biến đi.
Bạn đã sụp đổ vào bên trong. Có những khoảnh khắc khi thậm chí cả giấc mơ cũng
không có đó; thế thì giấc ngủ là sâu nhất.
Trong giấc ngủ sâu đó, bạn trong một lỗ đen, bạn chết. Trong
lúc bạn đang trong cái chết, việc nghỉ ngơi xảy ra trong cái chết. Và thế rồi
buổi sáng bạn trở lại, tràn đầy nhựa sống và khoan khoái và đầy sinh khí, tươi
trẻ lại. Nếu bạn có giấc ngủ sâu, thực sự say không mơ mộng, thì buổi sáng tươi
tắn, sinh động, rạng ngời, bạn lại trẻ trung. Nếu bạn biết cách ngủ sâu, bạn
cũng biết cách phục hồi lại bản thân mình. Đến tối lần nữa bạn lại sụp đổ, mệt
mỏi, cạn kiệt bởi hoạt động ban ngày.
Cùng điều ấy xảy ra cho mọi thứ. Con người là việc thu nhỏ của
toàn bộ sự tồn tại. Điều xảy ra cho con người cũng xảy ra cho toàn bộ sự tồn tại
trên qui mô lớn hơn, có vậy thôi. Mọi đêm bạn biến mất trong cái không, mọi
sáng bạn trở lại hình dạng. Hình dạng, vô hình, hình dạng, vô hình; đây là cách
cuộc sống chuyển vận, đó là hai bước.
Tại đây, này Sariputra,
mọi pháp đều được đánh dấu bởi trống rỗng;
chúng không được tạo ra hay bị chặn lại...
Và Phật đang nói: Chẳng phải làm gì cả, chỉ cần có hiểu biết.
Đây là một phát biểu cơ bản. Nó có thể làm biến đổi toàn bộ
cuộc sống của bạn nếu bạn có thể thấy nó như sự sáng suốt.
... chúng không được tạo ra hay bị chặn lại...
Không ai tạo ra những hình dạng này, và không ai chặn lại những
hình dạng này. Phật không tin vào Thượng đế như người thao tác, người điều khiển,
đấng sáng tạo, không. Điều đó sẽ là nhị nguyên, giả thuyết không cần thiết. Phật
nói điều đó xảy ra theo ý của nó; đấy là tự nhiên, không ai làm điều đó. Không
phải là trước hết Thượng đế nghĩ, “Có ánh sáng” - như được nói trong Kinh thánh
- thế là có ánh sáng. Và rồi một hôm ngài nói, “Bây giờ, không có ánh sáng,” và
ánh sáng biến mất. Tại sao đem Thượng đế này vào? Và tại sao giaocho ngài công
việc xấu thế? Và ngài sẽ phải làm điều đó mãi mãi và mãi mãi: “Có ánh sáng,
không có ánh sáng, có ánh sáng...Bây giờ để người này ở đấy, bây giờ để người ấy
chết” - bạn cứ thử nghĩ về ngài và cái chán của ngài mà xem! Phật an ủi Thượng
đế, ông ấy nói điều đó là không cần thiết.
Đấy chỉ là tự nhiên. Cây đem tới hạt mầm, rồi hạt mầm lại
đem tới cây, và cây lại đem tới hạt mầm. Hạt mầm là gì? Sự biến mất của cây;
cây đã đi vào cái vô hình. Bạn có thể mang một hạt mầm trong túi mình, bạn có
thể mang một nghìn hạt mầm trong túi, nhưng bạn không thể mang được một nghìn
cây trong túi mình. Cây có hình dạng, tầm vóc, khối lượng; hạt mầm có cái không. Và nếu bạn nhìn vào trong hạt mầm, bạn
sẽ chẳng thấy gì. Nếu bạn chưa hề thấy, chưa từng biết rằng hạt mầm trở thành
cây, và ai đó đưa cho bạn một hạt mầm và nói, “Nhìn đây, hạt mầm này là rất, rất
thần kì - nó có thể trở thành cây lớn, và sẽ có nhiều quả trong nhiều năm, có
tán lá lớn rồi hoa và cây cỏ, rồi chim chóc sẽ tới làm tổ ở đó,” bạn sẽ nói,
“Anh nói cái gì vậy? Mọc ra từ cái viên sỏi tí xíu này ư? Anh cho rằng tôi ngu
lắm hay là cái gì khác? Làm sao điều đó có thể xảy ra được? Nó không thể xảy ra
được.”
Nhưng bạn biết điều đó xảy ra, đó là lí do tại sao bạn không
chú ý gì tới nó. Phép mầu đang xảy ra. Hạt mầm nhỏ bé này đang mang toàn bộ bản
thiết kế cho cái cây, cho các chiếc lá - hình dạng và kích cỡ và số lượng - và
cả các cành, cả hình dạng của cành, và chiều dài và chiều cao của cây, và cuộc
sống, bao nhiêu quả, bao nhiêu hoa sẽ nở ra từ nó, bao nhiêu hạt mầm mà cuối
cùng hạt mầm này sẽ tạo ra. Các nhà khoa học nói rằng dù chỉ một hạt mầm cũng đủ
làm cho cả trái đất thành xanh tươi. Nó có tiềm năng mênh mông. Không chỉ toàn
trái đất này - chỉ một hạt mầm cũng có thể lấp đầy tất cả các hành tinh bằng mầu
xanh, bởi vì một hạt mầm có thể tạo ra hàng triệu hạt mầm, thế rồi từng hạt mầm
này lại tạo ra hàng triệu hạt mầm nữa, và cứ thế tiếp diễn. Toàn bộ sự tồn tại
có thể trở thành xanh tươi từ chỉ một hạt mầm. Cái không đó là rất tiềm năng, rất
mạnh mẽ! Mênh mông! Khổng lồ! Bao la!
Phật nói không ai tạo ra nó và không ai chặn nó lại cả. Phật
nói không cần phải đến đền đài và không cần phải cầu nguyện và bảo Thượng đế,
“Làm cái này, đừng làm cái kia” - chẳng có ai cả. Và thông điệp của ông ấy là
gì? Ông ấy nói, “Chấp nhận điều đó đi. Nó là như vậy. Nó là trong bản chất của
mọi vật. Nó chỉ là tự nhiên, mọi vật tới rồi đi.”
Trong chấp nhận này, trong cái tathata này, trong cái phản
ánh như thế, tất cả mọi lo nghĩ biến mất; bạn được tự do khỏi lo nghĩ. Thế thì
không có vấn đề gì. Và không cái gì có thể bị chặn lại, và không cái gì có thể
bị thay đổi, và không cái gì có thể được tạo ra. Mọi vật đều nhưchúng vẫn thế
và mọi vật sẽ như chúng sẽ thế, cho nên chẳng có gì cho bạn làm cả. Bạn chỉ
quan sát những vật này xảy ra. Bạn có thể tham dự vào trong những vật này.
Hiện hữu đi... trong hiện hữu đó có im lặng, trong hiện hữu
đó có vui vẻ. Hiện hữu đó là tự do. chúng ... không vẩn đục hay tinh khiết...
Sự tồn tại này không dơ bẩn cũng chẳng tinh khiết. Không ai
là tội nhân và không ai là thánh nhân. Sáng suốt của Phật là hoàn toàn cách mạng:
ông ấy nói không gì có thể là dơ bẩn và không gì có thể là thuần khiết; mọi vật
chỉ là như chúng vẫn thế. Đấy tất cả chỉ là trò chơi tâm trí mà chúng ta chơi
thôi, chúng ta tạo ra ý tưởng về thuần khiết - và thế rồi cái dơ bẩn đến. Chúng
ta tạo ra ý tưởng về thánh nhân - và thế thì tội nhân tới.
Bạn muốn tội nhân biến mất sao? Họ có thể biến mất chỉ khi
thánh nhân của bạn đã biến mất, không trước đó đâu. Họ tồn tại cùng nhau. Bạn
muốn vô đạo đức biến mất đi sao? - thế thì đạo đức cũng phải ra đi. Chính đạo đức
tạo ra vô đạo đức. Chính các ý tưởng đạo đức tạo ra kết án cho một vài người
không tuân theo chúng, người không thể đi với chúng. Và bạn có thể làm bất kì
cái gì vô đạo đức - chỉ cần tạo ra một ý tưởng: Cái này là đạo đức. Bạn có thể
làm một con bò linh thiêng từ bất kì cái gì, và thế thì nó trở thành một vấn đề.
Phật không nói gì về vẩn đục và không nói gì về tinh khiết cả.
Thuần khiết, dơ bẩn, đều là thái độ của tâm trí. Bạn có thể nói được cây là đạo
đức hay vô đạo đức? Bạn có thể nói được con vật là tội lỗi hay thánh nhân? Cố gắng
thấy viễn kiến tối thượng này: không có tội nhân, không có thánh nhân, không có
đạo đức, không có vô đạo đức. Trong chấp nhận này, lấy đâu ra khả năng lo nghĩ?
Không có gì phải cải tiến cả! Và không có mục đích, bởi vì không có giá trị. Cuộc
hành trình này là cuộc hành trình không có mục đích nào. Nó là cuộc hành trình
thuần khiết; nó là vở kịch, một leela. Và không có ai đứng sau nó, làm nó. Tất
cả đều xảy ra, và không có ai làm điều đó. Nếu người làm có đó, thế thì vấn đề
nảy sinh - thế thì có cầu nguyện đến người làm. Thế thì có thuyết phục người
làm, thế thì có việc trở thành thân thiết với người làm. Thế thì bạn sẽ được lợi,
và những người không thân thiết với người làm sẽ bị túng quẫn - họ sẽ phải chịu
đau khổ ở địa ngục. Đó là điều mà người Ki tô giáo, Hindu giáo, Mô ha mét giáo
nghĩ. Người Mô ha mét giáo nghĩ những ai là người Mô ha mét giáo sẽ lên cõi trời
còn những ai không phải Mô ha mét giáo, những anh chàng tội nghiệp, họ sẽ đi xuống
địa ngục. Cũng thế trong trường hợp của người Ki tô giáo và Hindu giáo: người
Hindu nghĩ những ai không phải là người Hindu giáo thì chẳng có cơ may nào; người
Ki tô giáo nghĩ những người không tới qua nhà thờ, những người không đi qua nhà
thờ, đều sẽ phải chịu đoạ địa ngục vĩnh viễn - không giới hạn, vô tận, mãi mãi.
Phật nói: Không có tội nhân, không có thánh nhân; không có
gì là thuần khiết, không có gì là dơ bẩn, mọi sự đều như chúng vẫn thế. Bạn cứ
thử ra thuyết phục cây mà xem, hỏi cây, “Sao mày lại xanh thế? Sao mày không mầu
đỏ?”
Và nếu cây lắng nghe bạn, thì nó sẽ thần kinh - “Tại sao tôi
lại không mầu đỏ? Tại sao? Thực tế, câu hỏi có quan hệ đấy. Tại sao tôi lại mầu
xanh nhỉ?” Kết án mầu xanh và ngợi ca mầu đỏ, chẳng chóng thì chầy bạn sẽ thấy
cây nằm trên trường kỉ nhà phân tâm học để được phân tích, giúp đỡ.
Trước hết bạn tạo ra vấn đề, và thế rồi người cứu tinh tới.
Đấy quả là một công việc đẹp đẽ. Phật chặt ngay từ chính gốc. Ông ấy nói: Bạn
là cái bạn đang là. Không có gì phải cải thiện, không phải đi đâu cả. Và đây là
toàn bộ cách tiếp cận của tôi nữa: bạn hoàn hảo như bạn có thể vậy, không thể
nào nhiều hơn. Cái ‘hơn thế’ sẽ chỉ tạo ra rắc rối cho bạn. Cái ý tưởng về ‘hơn
thế’ sẽ làm bạn phát điên. Chấp nhận tự nhiên đi, sống một cách tự nhiên, đơn
giản, tự phát, khoảnh khắc nọ sang khoảnh khắc kia, và có linh thiêng - bởi vì
bạn là toàn thể, không phải bởi vì bạn đã trở thành thánh nhân.
... không vẩn đục hay tinh khiết,
không khiếm khuyết hay hoàn chỉnh
Không cái gì là hoàn chỉnh và không cái gì là không hoàn chỉnh
cả; những giá trị này là vô nghĩa. Phật nói: Tại đây, này Sariputra, nơi ta hiện
hữu, không gì là tốt, không gì là xấu. Tại đây, nơi ta hiện hữu, luân hồi và niết
bàn là một. Không có phân biệt giữa báng bổ và thiêng liêng. Tại đây, nơi ta hiện
hữu, tất cả tất cả mọi phân biệt đều đã biến mất, bởi vì phân biệt do ý nghĩ tạo
ra. Khi ý nghĩ biến mất, phân biệt cũng biến mất.
Tội nhân do ý nghĩ tạo ra, còn thánh nhân cũng do ý nghĩ tạo
ra. Thượng đế và cái xấu đều do ý nghĩ tạo ra. Chính một mình ý nghĩ tạo ra những
phân biệt này. Phật nói: Khi tri thức biến mất, ý nghĩ biến mất. Không có nhị
nguyên. Tất cả là cái một.
Có câu châm ngôn nổi tiếng của Sosan: Trong cõi giới cao hơn
của việc phản ánh như thế đúng đắn không có cái ta mà cũng không có cái khác
hơn cái ta.
Khi đi tìm sự đồng nhất trực tiếp,
chúng ta chỉ có thể nói ‘bất nhị’.
Một trong tất cả, tất cả trong một: nếu điều này được hiểu,
thì không còn lo nghĩ về sự không hoàn hảo của bạn Một trong tất cả, tất cả
trong một - nếu điều này được hiểu, thì không còn lo nghĩ về sự không hoàn hảo
của bạn. Không có hoàn hảo, không có sự không hoàn hảo. Thấy nó, và thấy nó
ngay bây giờ đi! Đừng tới muộn rồi lại hỏi tôi cách làm điều đó. Không có
‘cách’ nào cả. ‘Cách’ là đưa tới tri thức - và tri thức là cái đáng nguyền rủa.
Không có môi giới méo mó của ý nghĩ, bạn rơi vào sự thống nhất
với cái toàn thể. Không có ý nghĩ vận hành giữa bạn và thực tế, tất cả mọi phân
biệt biến mất, bạn được bắc cầu. Và đó là điều mà con người cứ khao khát thường
xuyên. Bạn cảm thấy mất gốc rễ, mất gốc rễ với cái toàn thể. Đó là cái khổ của
bạn. Và bạn bị mất gốc rễ bởi vì cái môi giới méo mó của ý nghĩ này. Bỏ môi giới
méo mó của ý nghĩ này đi, bỏ những môi giới này đi, nhìn vào thực tại như nó vẫn
thế, không có ý tưởng trong tâm trí mình, không có ý tưởng về cách nó phải thế
nào. Nhìn với sự hồn nhiên. Nhìn với cái không biết và mọi lo nghĩ sẽ biến mất.
Trong biến mất của lo nghĩ đó bạn trở thành vị Phật.
Bạn là vị Phật! Nhưng bạn bỏ lỡ bởi vì bạn đang mang những
môi giới méo mó quanh mình. Bạn có con mắt hoàn chỉnh và bạn lại đeo kính. Những
cái kính đó làm méo mó, chúng tô mầu, chúng làm cho mọi vật dường như không phải
là chúng. Vứt kính đi! Đấy là điều được ngụ ý khi chúng ta nói “Vứt tâm trí
đi.” Phủ định tâm trí và có im lặng - và trong im lặng đó bạn là điều thiêng
liêng. Bạn chưa bao giờ là bất kì cái gì khác, bạn bao giờ cũng là cái đó.
Nhưng nhận biết tới, hiểu biết tới.
Bạn bỗng nhiên thấy ra vấn đề: rằng bạn đã cố gắng gắn chân
cho rắn. Ngay từ đầu việc đó là chẳng cần thiết - rắn hoàn toàn là tuyệt hảo!
Không có chân, nó vẫn di chuyển hoàn hảo. Chỉ từ so sánh bạn mới cố gắng gắn
chân cho nó. Nếu bạn thành công, bạn sẽ giết chết con rắn. May mắn là bạn chẳng
bao giờ có thể thành công được.
Bạn đang cố gắng để trở thành hiểu biết và đó là lí do tại
sao bạn làm mất cảm nhận của mình, cái biết của bạn, khả năng của bạn để thấy.
Đó là điều tôi ngụ ý qua ‘gắn chân cho rắn’. Việc biết là bản tính của bạn.
Không cần phải có tri thức để biết. Trong thực tế, tri thức là cái cản trở, tri
thức là cái đáng nguyền rủa.
Phủ định tri thức và hiện hữu đi - và bạn là vị Phật, và bạn
bao giờ cũng là vị Phật.
Đủ cho hôm nay.
* Trong các kinh sách cổ của Việt Nam vẫn dịch là Xá Lợi
Phất hay Xá Lợi Tử
Xem tiếp Chương 4 - Quay về Mục lục