Câu hỏi thứ nhất
Osho kính yêu,
Đôi khi trong lúc chỉ có ngồi, câu hỏi lại tới trong tâm
trí: Chân lí là gì? Nhưng vào lúc tôi tới đây thì tôi hiểu rằng tôi không có khả
năng hỏi. Nhưng tôi có thể hỏi điều gì xảy ra trong những khoảnh khắc đó khi
câu hỏi này nảy sinh mạnh mẽ đến mức giá mà Thầy ở gần thì tôi sẽ hỏi ngay điều
đó. Hay nếu Thầy không đáp lại, thì tôi sẽ túm râu hay cổ áo Thầy mà hỏi, “Chân
lí là gì, thưa Osho?”
Đấy là câu hỏi quan trọng nhất có thể nảy sinh trong tâm trí
của bất kì ai, nhưng không có câu trả lời cho nó. Câu hỏi quan trọng nhất, câu
hỏi tối thượng, không thể có bất kì câu trả lời nào; đó là lí do tại sao nó là
tối thượng.
Khi Pontius Pilate hỏi Jesus, “Chân lí là gì?” thì Jesus im
lặng. Không chỉ có thế, câu chuyện nói rằng khi Pontius Pilate hỏi câu hỏi,
“Chân lí là gì?” ông ấy cũng chẳng đợi nghe câu trả lời nữa. Ông ấy rời khỏi
phòng và bỏ đi. Điều này rất kì lạ. Pontius Pilate cũng nghĩ rằng không thể có
câu trả lời cho nó, cho nên ông ấy đã không chờ đợi câu trả lời. Jesus vẫn còn
im lặng bởi vì ông ấy cũng biết điều ấy không thể nào trả lời nổi.
Nhưng hai hiểu biết này là không giống nhau, bởi vì hai người
này là đối diện nhau qua đường kính. Pontius Pilate nghĩ rằng điều đó không thể
nào trả lời nổi bởi vì không có chân lí; làm sao bạn có thể trả lời được nó? Đó
là tâm trí logic, tâm trí Roman. Jesus im lặng không phải bởi vì không có chân
lí, mà bởi vì chân lí quá bao la, nó không thể nào định nghĩa được. Chân lí khổng
lồ thế, mênh mông thế, nó không thể nào chứa đựng nổi trong một từ, nó không thể
nào thu lại trong ngôn ngữ. Nó có đấy. Người ta có thể là nó, nhưng người ta
không thể nào nói về nó.
Bởi hai lí do mà họ hành xử gần như theo cùng cách: Pontius
đã không đợi để nghe câu trả lời, ông ta đã biết rằng không có chân lí. Jesus vẫn
còn im lặng bởi vì ông ấy biết chân lí, và biết rằng nó không thể nào nói ra được.
Chidvilas đã hỏi câu hỏi này. Câu hỏi này hoàn toàn có ý nghĩa. Không có câu hỏi
nào cao hơn nó, bởi vì không có tôn giáo nào cao hơn chân lí. Nó phải được hiểu;
câu hỏi này phải được phân tích. Với việc phân tích câu hỏi, cố gắng hiểu bản
thân câu hỏi, bạn có thể có cái nhìn sáng suốt vào chân lí là gì. Tôi sẽ không
trả lời nó, tôi không thể trả lời nó được; không ai có thể trả lời điều đó được.
Nhưng chúng ta có thể đi sâu vào bên trong câu hỏi này. Khi đi sâu vào bên
trong câu hỏi này, câu hỏi này sẽ bắt đầu biến mất. Khi câu hỏi đã biến mất, bạn
sẽ tìm thấy câu trả lời có đó tại chính cốt lõi trái tim bạn - bạn là chân lí,
cho nên làm sao bạn có thể lỡ nó được?
Có thể bạn đã quên mất về nó, có thể bạn đã đánh mất dấu vết
của nó, có thể bạn đã quên mất cách đi vào trong bản thể riêng của mình, vào
trong chân lí riêng của mình. Chân lí không phải là giả thuyết, chân lí không
phải là học thuyết. Chân lí chẳng phải là Hindu giáo, cũng không Ki tô giáo, chẳng
Mô ha mét giáo. Chân lí chẳng phải của tôi cũng không của bạn. Chân lí chẳng
thuộc vào ai, nhưng mọi người đều thuộc vào chân lí. Chân lí có nghĩa là cái
đang đấy: đó là đích xác ý nghĩa của từ này. Nó tới từ gốc latinh, verus. Verus
có nghĩa là: cái đang đấy. Trong tiếng Anh có vài từ là biến thể của gốc latinh
verus này: was, were - chúng có nguồn gốc từ verus. Trong tiếng Đức, war - cũng
đến từ verus. Verus có nghĩa là cái có đấy, không được diễn giải. Một khi việc
diễn giải tới, thế thì cái bạn biết là thực tại, không phải là chân lí. Đó là
khác biệt giữa chân lí và thực tại. Thực tại là chân lí được diễn giải.
Cho nên khoảnh khắc bạn trả lời câu hỏi, “Chân lí là gì?”
thì nó trở thành thực tại; nó không còn là chân lí nữa. Diễn giải đã đi vào
trong nó, tâm trí đã tô mầu cho nó. Và thực tại cũng nhiều như tâm trí vậy; có
đa thực tại. Chân lí là một bởi vì chân lí chỉ được biết tới khi tâm trí không
có đó. Chính tâm trí giữ bạn tách rời khỏi tôi, tách rời khỏi người khác, tách
rời khỏi sự tồn tại. Nếu bạn nhìn qua tâm trí, thế thì tâm trí sẽ cho bạn một bức
tranh về chân lí. Đấy sẽ chỉ là một bức tranh, một bức ảnh của cái đang đấy. Và
tất nhiên, bức ảnh phụ thuộc vào máy ảnh, vào phim được dùng, vào hoá chất, vào
cách rửa ảnh, vào cách in ảnh, vào người đã làm việc đó.
Cả ngàn lẻ một thứ đi vào; nó trở thành thực tại. Từ thực tại
cũng hay nếu được hiểu. Nó bắt nguồn từ gốc, res; nó có nghĩa là một vật hay
nhiều vật. Chân lí không phải là đồ vật. Một khi được diễn giải, một khi tâm
trí đã chộp lấy nó, định nghĩa nó, đánh dấu nó, thì nó trở thành đồ vật.
Khi bạn phải lòng một người phụ nữ thì có chân lí nào đó - nếu
bạn đã yêu hoàn toàn không nhận biết, nếu bạn không ‘làm’ nó theo bất kì cách
nào, nếu bạn không hành động, không điều khiển, nếu bạn thậm chí không nghĩ về
nó. Bỗng nhiên bạn thấy một người phụ nữ, bạn nhìn vào mắt cô ấy, cô ấy nhìn
vào mắt bạn, và một cái gì đó nhoáng lên. Bạn không phải là người làm ra điều
đó, bạn đơn giản bị nó sở hữu, bạn đơn giản rơi vào trong nó. Nó chẳng dính
dáng gì tới bạn. Bản ngã bạn không tham dự vào, ít nhất cũng không ngay chính
lúc đầu, khi tình yêu còn trinh bạch. Trong khoảnh khắc đó có chân lí, nhưng
không có diễn giải. Đó là lí do tại sao tình yêu vẫn còn không định nghĩa nổi.
Chẳng mấy chốc tâm trí tới, bắt đầu quản lí mọi việc, chiếm
hữu lấy bạn. Bạn bắt đầu nghĩ về cô gái như bạn gái của mình, bạn bắt đầu nghĩ
về cách cưới, bạn bắt đầu nghĩ về người phụ nữ như vợ bạn. Bây giờ những điều
này; nào bạn gái, nào vợ - đấy là các sự vật. Chân lí không còn nữa, nó đã
thoái lui lại. Bây giờ sự vật thành quan trọng hơn. Cái định nghĩa được thì an
toàn hơn, cái không định nghĩa được thì bất an. Bạn đã bắt đầu giết chết, đầu độc
chân lí. Chẳng chóng thì chầy sẽ có một người vợ và một người chồng, hai vật.
Nhưng cái đẹp mất rồi, niềm vui đã biến mất, tuần trăng mật đã qua.
Tuần trăng mật trôi qua vào đúng khoảnh khắc mà chân lí trở
thành thực tại, khi tình yêu trở thành quan hệ. Không may là tuần trăng mật rất
ngắn ngủi - tôi không nói về tuần trăng mật bạn vẫn nghĩ. Tuần trăng mật này rất
chóng vánh. Có thể trong một khoảnh khắc nó có đó, nhưng cái thuần khiết của
nó, cái thuần khiết như pha lê của nó, điều thiêng liêng của nó, tính chất phía
bên kia của nó - nó là từ cái vĩnh hằng, nó không phải của thời gian. Nó không
phải là một phần của thế giới trần tục này, nó giống như một tia sáng chiếu vào
một lỗ đen. Nó tới từ cái siêu việt. Hoàn toàn thích hợp để gọi tình yêu là Thượng
đế, bởi vì tình yêu là chân lí. Cái gần chân lí nhất mà bạn thường đi tới trong
cuộc sống thường ngày là tình yêu.
Chidvilas hỏi: “Chân lí là gì?”
Việc hỏi phải biến mất; chỉ thế thì bạn mới biết.
Nếu bạn hỏi, “Chân lí là gì?” thì bạn đang hỏi gì vậy? Nếu
tôi nói A là chân lí, B là chân lí, C là chân lí, đó có phải là câu trả lời
không? Nếu tôi nói A là chân lí, thế thì chắc chắn A không thể là chân lí: nó
là cái gì đó khác mà tôi đang dùng như một điều đồng nghĩa với chân lí. Nếu nó
là hoàn toàn đồng nghĩa, thế thì nó sẽ là sự lặp lại không cần thiết. Thế thì
tôi có thể nói, “Chân lí là chân lí,” nhưng điều đó là xuẩn ngốc, vô nghĩa. Chẳng
giải quyết được gì cả. Nếu nó đích xác là một, nếu A là chân lí, thế thì nó sẽ
có nghĩa chân lí là chân lí. Nếu A là khác, là không đúng chân lí, thế thì tôi
đang bóp méo.
Thế thì việc nói A là chân lí sẽ chỉ là xấp xỉ. Và nhớ lấy,
không thể có bất kì xấp xỉ nào được. Hoặc là chân lí hoặc là không. Cho nên tôi
không thể nói A là chân lí. Thậm chí tôi không thể nói, “Thượng đế là chân lí,”
bởi vì Thượng đế là chân lí thế thì đấy lại là lặp lại không cần thiết - “Chân
lí là chân lí.” Thế thì tôi chẳng nói điều gì cả. Nếu Thượng đế là khác chân
lí, thế thì tôi đang nói điều gì đó, nhưng thế thì tôi đang nói một điều gì đó
sai.
Thế thì Thượng đế là khác, thế thì làm sao ngài có thể là
chân lí được? Nếu tôi nói điều đó là xấp xỉ, về mặt ngôn ngữ thì có vẻ được,
nhưng điều đó không đúng. ‘Xấp xỉ’ có nghĩa là dối trá nào đó có đấy, điều gì
đó sai sót có đấy. Nếu không, tại sao lại không phải là chân lí một trăm phần
trăm? Nếu nó là chín mươi chín phần tram chân lí thì một cái gì đó còn đó mà
không đúng. Và chân lí và phi chân lí không thể cùng tồn tại với nhau, cũng hệt
như bóng tối và ánh sáng không thể cùng tồn tại với nhau - bởi vì bóng tối
không là gì khác ngoài sự thiếu vắng. Sự thiếu vắng và sự hiện diện không thể
cùng tồn tại với nhau, chân lí và phi chân lí không thể cùng tồn tại. Phi chân
lí không là gì khác hơn việc thiếu vắng chân lí.
Cho nên không câu trả lời là điều có thể, do đó Jesus vẫn
còn im lặng. Nhưng nếu bạn nhìn vào điều đó với thông cảm sâu sắc, nếu bạn nhìn
vào im lặng của Jesus, bạn sẽ có câu trả lời. Im lặng là câu trả lời. Jesus
đang nói, “Im lặng đi, như ta đang im lặng, và ông sẽ biết” - không nói điều đó
bằng lời. Đấy là một cử chỉ, nó rất, rất giống thiền. Trong khoảnh khắc Jesus vẫn
còn im lặng, ông ấy tới rất gần với cách tiếp cận của thiền, cách tiếp cận của
Phật giáo. Ông ấy là vị phật trong khoảnh khắc đó. Phật chưa bao giờ trả lời những
câu hỏi này. Ông ấy có mười một câu hỏi được liệt kê ra: bất kì chỗ nào ông ấy
cũng phái đệ tử đi tới và tuyên bố với mọi người, “Đừng bao giờ hỏi mười một
câu hỏi này với Phật.” – câu hỏi nền tảng, câu hỏi thực sự có nghĩa. Bạn có thể
hỏi bất kì cái gì khác, và Phật bao giờ cũng sẵn sàng trả lời.
Nhưng đừng hỏi câu hỏi nền tảng, bởi vì cái nền tảng chỉ có
thể được kinh nghiệm. Và chân lí là nền tảng cơ bản nhất; chính bản chất của sự
tồn tại là chân lí. Đi vào trong câu hỏi này đi. Câu hỏi này là có ý nghĩa, nó
đang nảy sinh trong tim bạn: “Chân lí là gì?” - một ham muốn để biết cái đang đấy,
đang nảy sinh. Bạn đừng gạt nó sang bên, đi vào trong nó. Chidvilas, bất kì khi
nào điều ấy lại xảy ra, nhắm mắt lại, đi vào trong câu hỏi này. Để cho câu hỏi
trở thành rất, rất hội tụ lại - “Chân lí... là... gì?” Bạn để cho việc tập
trung lớn nảy sinh ra. Quên hết mọi thứ, dường như toàn bộ cuộc sống của bạn phụ
thuộc vào câu hỏi đơn giản này, “Chân lí là gì?” Bạn để nó trở thành vấn đề sống
và chết. Và bạn đừng cố gắng trả lời nó, bởi vì bạn không biết câu trả lời.
Câu trả lời có thể tới - tâm trí bao giờ cũng cố gắng đưa ra
câu trả lời - nhưng thấy sự kiện rằng bạn không biết, rằng tại sao bạn lại hỏi.
Cho nên làm sao tâm trí bạn có thể đưa ra cho bạn câu trả lời được? Tâm trí
không biết, cho nên bảo tâm trí, “Im đi.” Nếu bạn biết, thế thì không cần có
câu hỏi đó. Bạn không biết, do đó mới có câu hỏi.
Cho nên bạn đừng bị lừa phỉnh bởi đồ chơi của tâm trí. Nó
cung cấp đồ chơi: nó nói, “Đây, điều này được viết trong Kinh thánh. Đây, điều
này được viết trong Upanishads. Đây là câu trả lời. Nhìn đây, điều này được Lão
Tử viết, đây là câu trả lời.” Tâm trí có thể ném tất cả các loại kinh sách vào
bạn: tâm trí có thể trích dẫn, tâm trí có thể cung cấp từ kí ức. Bạn đã nghe
nhiều điều, bạn đã đọc nhiều điều; tâm trí mang tất cả những kí ức này.
Nó có thể lặp lại theo một cách máy móc. Nhưng nhìn vào hiện
tượng này: rằng tâm trí không biết, và tất cả những cái tâm trí lặp lại đều là
đồ vay mượn cả. Mà đồ vay mượn thì chẳng ích gì.
Sự việc xảy ra tại đường giao xe lửa. Cổng đã bị khoá lại, một
con tầu sắp đi qua, và một người đang ngồi trong xe ô tô, đợi cho tầu đi qua, vừa
đọc sách. Một kẻ say rượu đang ngồi bên cạnh cổng lại gần, gõ vào cửa sổ của
chiếc xe có điều hoà nhiệt độ. Người này mở cửa sổ ra và nói, “Tôi có thể giúp
gì được cho ông? Ông cần giúp đỡ gì chăng?”
Và kẻ vô công rồi nghề nói, “Có đấy, trong hai ngày nay tôi
chưa được ăn gì hết cả. Ông có thể cho tôi hai đồng ru pi không? Như thế sẽ đủ
cho tôi, chỉ cần hai đồng thôi.”
Người này cười to và nói, “Đừng bao giờ vay và đừng bao giờ
mượn tiền cả,” và giơ cuốn sách lên cho kẻ vô công rồi nghề và nói,
“Shakespeare - Shakespeare nói thế đấy. Nhìn đây này.”
Kẻ vô công rồi nghề lôi trong túi mình ra một cuốn sách bìa
giấy rất bẩn thỉu và nói với người này, “Ông là đồ mọt sách - D. H. Lawrence.”
Nhận biết về tâm trí đi. Tâm trí cứ liên tục trích dẫn, tâm
trí biết tất cả mà lại không biết tí gì. Tâm trí là kẻ giả vờ. Nhìn vào hiện tượng
này: điều này tôi gọi là sáng suốt. Đấy không phải là vấn đề suy nghĩ. Nếu bạn
nghĩ về nó, đấy lại là tâm trí. Bạn phải nhìn thấu suốt. Bạn phải nhìn sâu vào
trong chính hiện tượng này, vận hành của tâm trí, cách thức tâm trí vận hành.
Nó vay mượn từ đâu đó, nó cứ vay mượn và tích luỹ. Nó là kẻ tích trữ, tích trữ
tri thức. Tâm trí trở thành rất hiểu biết, và thế thì bất kì khi nào bạn hỏi một
câu hỏi thực sự quan trọng, tâm trí sẽ cho một câu trả lời rất không quan trọng
về nó - vô ích, giả tạo, rác rưởi.
Một người đem một con vẹt về từ tiệm vẹt. Ông chủ tiệm cam
đoan với người này con vẹt sẽ học nói chào trong vòng nửa giờ thôi. Trở về nhà
ông ta để cả giờ ‘xin chào’ cho con vẹt, nhưng chẳng thấy lời nào từ vẹt cả.
Khi ông ta quay đi trong nỗi thất vọng sâu sắc thì con vẹt nói, “Đám đánh
nhau.”
Vẹt thì vẫn là vẹt thôi. Nó phải đã nghe câu này trong tiệm
vẹt. Còn người này thì cứ lặp lại mãi, “Xin chào, xin chào, xin chào,” còn con
chim thì nghe, và đợi cho anh ta dừng lại. Thế thì nó mới có thể nói, “Đám đánh
nhau!”
Bạn cứ hỏi tâm trí, “Chân lí là gì, chân lí là gì, chân lí
là gì?” Và khoảnh khắc bạn dừng lại, tâm trí sẽ lập tức nói, “Đám đánh nhau”
hay cái gì đó. Tâm trí sẽ cho bạn câu trả lời. Nhận biết về tâm trí đi.
Tâm trí là quỉ, không có quỉ nào khác. Và đó là tâm trí của
bạn. Sáng suốt này cần phải được phát triển – hay nhìn thấu suốt. Chặt tâm trí
ra làm đôi bằng lưỡi kiếm sắc bén. Lưỡi kiếm đó là nhận biết. Chém tâm trí ra
làm đôi và đi vào qua nó, đi ra ngoài nó! Và nếu bạn có thể đi ra ngoài tâm
trí, xuyên qua tâm trí, và một khoảnh khắc vô trí nảy sinh trong bạn, thì có
câu trả lời - không phải là câu trả lời miệng, không phải là kinh sách được
trích dẫn, không phải là lời đánh dấu chú thích, mà đích thực là của bạn, chứng
nghiệm. Chân lí là kinh nghiệm về sự tồn tại.
Câu hỏi là có ý nghĩa mênh mông, nhưng bạn sẽ phải rất tôn
kính hướng về câu hỏi đó. Đừng vội vã tìm bất kì câu trả lời nào, nếu không thì
rác rưởi sẽ giết chết câu trả lời. Đừng cho phép tâm trí giết chết câu hỏi. Và
cách để cho tâm trí giết chết câu hỏi là cung cấp câu trả lời, chưa sống qua,
chưa kinh nghiệm tới.
Bạn là chân lí! Nhưng điều đó chỉ có thể xảy ra trong im lặng
hoàn toàn, khi không một ý nghĩ nào chuyển động, khi tâm trí không có gì để
nói, khi không một gợn sóng nổi lên trong tâm thức bạn. Khi không một gợn sóng
trong tâm thức bạn, tâm thức bạn vẫn còn không bị quấy rối. Khi có một gợn
sóng, có khuấy đảo.
Đi ra hồ. Khi đứng trên bờ, nhìn xuống bóng phản xạ của
mình. Nếu có sóng, gợn sóng trên hồ, và gió thổi, bóng của bạn bị xao động. Bạn
không thể nào hình dung ra được cái gì là cái gì - đâu là mũi bạn và đâu là mắt
bạn - bạn chỉ có thể đoán. Nhưng khi hồ tĩnh lặng và gió không thổi và không có
một gợn sóng trên hồ, bỗng nhiên bạn có đấy. Trong hoàn hảo tuyệt đối, sự phản
xạ có đấy. Hồ trở thành tấm gương.
Bất kì khi nào có một ý nghĩ chuyển qua tâm thức bạn, nó đều
bóp méo. Và có nhiều ý nghĩ lắm, hàng nghìn ý nghĩ, liên tục xô tới, và bao giờ
cũng là giờ cao điểm.. Hai mươi bốn giờ một ngày đấy đều là giờ cao điểm, và
lưu thông cứ tiếp diễn mãi, và mỗi ý nghĩ lại được gắn với hàng nghìn ý nghĩ
khác. Chúng tất cả đều nắm tay nhau và nối với nhau, gắn lẫn nhau và toàn bộ
đám đông ấy xô đẩy quanh bạn. Làm sao bạn biết được chân lí là gì? Thoát ra khỏi
đám đông này đi đã.
Đó chính là thiền là gì, thiền chính là tất cả những gì: một
tâm thức không tâm trí, một tâm thức không ý nghĩ, một tâm thức không có bất kì
vẩn vơ nào - tâm thức không vẩn vơ. Thế thì nó có đó trong tất cả vẻ đẹp đẽ và
phúc lành của nó. Thế thì chân lí có đó - gọi nó Thượng đế, gọi nó là niết bàn,
hay bất kì cái gì bạn thích gọi cho nó. Nó có đó, và nó có đó như một kinh nghiệm.
Bạn ở trong nó và nó ở trong bạn.
Dùng câu hỏi này đi. Làm cho nó thấm nhuần hơn. Làm cho nó
thấm nhuần thế; đặt mọi thứ vào tình thế nguy hiểm để cho tâm trí không thể
đánh lừa bạn bởi những câu trả lời hời hợt của nó. Một khi tâm trí biến mất. Một
khi tâm trí không còn chơi trò mẹo của nó nữa, bạn sẽ biết chân lí là gì. Bạn sẽ
biết nó trong im lặng. Bạn sẽ biết nó trong nhận biết không suy nghĩ.
Câu hỏi thứ hai:
Osho kính yêu,
Buông xuôi của tôi là có định hướng. Tôi buông xuôi để được
tự do, cho nên nó không thực là buông xuôi chút nào. Tôi đang quan sát nó,
nhưng vấn đề là: đấy bao giờ cũng là cái ‘tôi’ người đang quan sát. Do đó mọi
việc hiểu của quan sát đó chỉ làm mạnh thêm bản ngã. Tôi cảm thấy bị bản ngã
mình lừa.
Bạn vẫn chưa hiểu buông xuôi nghĩa là gì. Điều đầu tiên cần
phải nhớ về buông xuôi là: bạn không thể làm được điều đó, đấy không phải là việc
làm. Bạn có thể ngăn cản nó không cho xảy ra, nhưng bạn không thể điều khiển
cho nó xảy ra được. Sức mạnh của bạn về buông xuôi chỉ là phủ định; bạn có thể
ngăn cản nó, nhưng bạn không thể đem nó lại.
Buông xuôi không phải là cái gì đó mà bạn có thể làm. Nếu bạn
làm điều đó, đấy lại không phải là buông xuôi, bởi vì người làm có đó. Buông
xuôi là việc hiểu biết vĩ đại rằng, “Tôi không có.” Buông xuôi là cái nhìn sáng
suốt rằng bản ngã không tồn tại, rằng, “Tôi không tách biệt.” Buông xuôi không
phải là hành động mà là hiểu biết.
Tại chỗ đầu tiên bạn là sai lầm, tách biệt là sai lầm. Không
một khoảnh khắc nào bạn có thể tồn tại mà tách biệt khỏi vũ trụ. Cây không thể
tồn tại nếu bị bật rễ khỏi đất. Cây không thể tồn tại nếu mặt trời biến mất
ngày mai. Cây không thể tồn tại nếu không có nước tới rễ của nó. Cây không thể
tồn tại nếu nó không được thở. Cây bắt rễ vào tất cả năm yếu tố - điều phật tử
gọi là skandhas, uẩn, năm nhóm mà chúng ta nói tới hôm nọ.
Avalokita... khi Phật đi tới viễn kiến siêu việt, khi ông ấy
trải qua tất cả các giai đoạn này, khi ông ấy trải qua tất cả các bậc thang của
chiếc thang và đi tới bậc thứ bẩy - từ đó ông ấy nhìn xuống, nhìn lại - ông ấy
đã thấy gì? Ông ấy đã thấy chỉ có năm hợp phần và chẳng có gì bản chất trong
chúng cả; chỉ là cái trống rỗng, shunyata.
Cây không thể tồn tại nếu năm yếu tố này không thường xuyên
được rót năng lượng vào nó. Cây chỉ là tổ hợp của năm yếu tố này. Nếu cây bắt đầu
nghĩ, “Ta đây,” thế thì sẽ có khổ cho cây đó. Cây này sẽ tạo ra địa ngục cho
chính mình. Nhưng cây không đần độn đến thế, chúng không mang bất kì tâm trí
nào. Chúng có đó, và nếu ngày mai chúng biến mất, thì chúng đơn giản biến đi.
Chúng không níu bám; không có ai để níu bám cả. Cây thường
xuyên buông xuôi cho sự tồn tại. Bởi việc buông xuôi điều đó có nghĩa là nó
không bao giờ tách rời, nó không đi tới ý tưởng ngu đần về bản ngã. Và chim
chóc cũng thế, núi non cũng thế, các vì sao cũng thế. Chỉ duy nhất con người đã
chuyển cơ hội vĩ đại là tâm thức của mình thành tự ý thức. Con người có tâm thức.
Nếu tâm thức trưởng thành, nó có thể đem bạn tới phúc lạc lớn nhất có thể có.
Nhưng nếu điều gì đó đi sai và tâm thức trở thành xấu, trở thành tự ý thức, thế
thì nó tạo ra địa ngục, thế thì nó tạo ra khổ. Cả hai khả năng bao giờ cũng để
mở; vấn đề dành cho bạn chọn lựa.
Điều thứ nhất cần phải hiểu về bản ngã là ở chỗ nó không tồn
tại. Không ai tồn tại trong tách biệt cả. Bạn là một với sự tồn tại cũng như
tôi, như Phật, như Jesus. Tôi biết điều đó, bạn không biết điều đó; khác biệt
chỉ là ở nhận biết. Khác biệt là không tồn tại, không tồn tại chút nào! Cho nên
bạn phải nhìn vào ý tưởng ngu đần này về tách biệt. Bây giờ nếu bạn bắt đầu cố
gắng buông xuôi, bạn vẫn còn đeo mang cái ý tưởng về về tách biệt. Bây giờ bạn
đang nghĩ, “Ta sẽ buông xuôi, bây giờ ta đang sắp buông xuôi” - nhưng bạn nghĩ
bạn có đấy.
Khi nhìn vào trong chính ý tưởng tách biệt này, một ngày nào
đó bạn sẽ thấy rằng bạn không tách biệt, vậy làm sao bạn có thể buông xuôi được?
Không có ai để buông xuôi cả! Việc buông xuôi không có đó, không có chút nào -
chưa bao giờ thấy ở bất kì đâu cả. Nếu bạn đi vào trong bản thân mình, bạn sẽ
không tìm thấy người buông xuôi ở đâu cả. Trong khoảnh khắc đó lại là việc
buông xuôi. Khi người buông xuôi không tìm thấy đâu, thì trong khoảnh khắc đó
là việc buông xuôi. Bạn không thể làm ra điều đó. Nếu bạn làm điều đó, đấy là
việc giả.
Từ cái giả chỉ có cái giả sinh ra. Bạn là giả, cho nên bất
kì cái gì bạn làm cũng đều sẽ giả, giả hơn. Và cái giả này dẫn tới cái giả
khác, và cứ thế mà tiếp diễn. Và cái giả nền tảng là bản ngã, cái ý tưởng, “Ta
là tách biệt.”
Bạn hỏi: “Buông xuôi của tôi là hướng đích.” Bản ngã bao giờ
cũng hướng đích. Nó bao giờ cũng tham lam, nó bao giờ cũng chộp lấy. Nó bao giờ
cũng tìm kiếm thêm nữa, thêm nữa và thêm nữa; nó sống trong cái thêm nữa. Nếu bạn
có tiền, nó muốn có nhiều tiền hơn; nếu bạn có nhà, nó muốn ngôi nhà to hơn; nếu
bạn có một người phụ nữ, nó muốn có người phụ nữ đẹp, nhưng bao giờ cũng muốn
nhiều hơn. Bản ngã thường xuyên đói. Nó sống trong tương lai và trong quá khứ.
Trong quá khứ nó sống như một kẻ tích trữ - “Ta có cái này
và cái này và cái này.” Nó thoả mãn lắm khi: “Ta được cái gì đó” - quyền lực,
danh vọng, tiền bạc. Nó cho điều đó là một loại thực tại. Nó đưa ra khái niệm rằng,
“Khi ta có những thứ này, thì ta phải có đấy.” Và nó sống trong tương lai với
cái ý tưởng nhiều nữa. Nó sống như kí ức và như ham muốn.
Mục đích là gì? Một ham muốn: “Ta phải đạt tới đó, ta phải
là cái đấy, ta phải đạt tới.” Bản ngã không, không thể sống trong hiện tại, bởi
vì hiện tại là thực còn bản ngã là giả - chúng chưa bao giờ gặp nhau. Quá khứ
là giả, nó không còn nữa. Có thời nó có đấy, nhưng khi nó là hiện tại thì bản
ngã không có đó. Một khi nó đã biến mất, không còn tồn tại nữa, bản ngã bắt đầu
chộp lấy nó, tích luỹ nó. Nó vồ lấy và tích luỹ những thứ chết. Bản ngã là nấm
mồ; nó thu thập các xác chết, những bộ xương chết.
Hay, nó sống trong tương lai. Lần nữa, tương lai lại chưa có
- nó là tưởng tượng, hư cấu, mơ mộng. Bản ngã có thể sống với những cái đó nữa,
rất dễ dàng; những cái giả đi với nhau một cách hoàn hảo, trôi chảy lắm. Bạn cứ
đem bất kì cái gì tồn tại lại và bản ngã biến mất. Do đó mới có nhấn mạnh ở
trong hiện tại, ở đây và bây giờ.
Ngay khoảnh khắc này... Nếu bạn thông minh thì chẳng cần phải
nghĩ về điều tôi đang nói; bạn có thể đơn giản thấy vào trong nó ngay chính khoảnh
khắc này! Bản ngã ở đâu? Có im lặng, và không có quá khứ, và không có tương
lai, chỉ khoảnh khắc này... và con chó này sủa. Khoảnh khắc này, và bạn không
có đấy. Bạn để khoảnh khắc này có đấy, còn bạn thì không có đấy. Và có im lặng
mênh mông, có im lặng sâu lắng, bên trong và bên ngoài. Và thế thì không cần phải
buông xuôi bởi vì bạn biết bạn không có đó. Việc biết rằng bạn không có đó
chính là buông xuôi.
Vấn đề không phải là buông xuôi cho tôi, vấn đề không phải
là buông xuôi cho Thượng đế. Vấn đề không phải là buông xuôi chút nào. Buông
xuôi là sáng suốt, hiểu biết rằng, “Tôi không có đó.” Thấy ra, “Tôi không có
đó, tôi là cái không, cái trống rỗng,” thì buông xuôi trưởng thành. Đoá hoa
buông xuôi trưởng thành trên cây của trống rỗng. Nó không thể nào là hướng đích
được.
Bản ngã là hướng đích. Bản ngã khao khát về tương lai. Nó có
thể khao khát thậm chí cả kiếp sống khác, nó khao khát cõi trời, nó khao khát
niết bàn. Nó khao khát cái gì cũng chẳng thành vấn đề - việc khao khát chính là
cái đang đấy, việc ham muốn chính là cái đang đấy, việc phóng chiếu vào trong
tương lai chính là cái đang đấy.
Nhìn nó đi! Nhìn vào trong nó đi! Tôi không nói nghĩ về nó.
Nếu bạn nghĩ về nó thì bạn lỡ. Nghĩ lại có nghĩa là quá khứ và tương lai. Có
cái nhìn vào nó - avalokita! - nhìn vào trong nó. Từ tiếng Anh cho nhìn có cùng
gốc như avalokita. Nhìn vào trong nó, và làm điều ấy ngay bây giờ. Bạn đừng tự
nhủ, ‘Được, mình sẽ về nhà và thực hiện điều đó.” Bản ngã đi vào, mục đích đã tới,
tương lai đã đi vào. Bất kì khi nào thời gian đi vào, bạn lại rơi vào trong giả
tưởng về tách biệt đó.
Ở đây, chính khoảnh khắc này. Và thế thì bạn bỗng nhiên thấy
mình có đấy, mà bạn chẳng đi đâu cả, mà bạn chẳng tới bất kì đâu cả. Bạn bao giờ
cũng ở đây. Ở đây là thời gian duy nhất, không gian duy nhất. Bây giờ là sự tồn
tại duy nhất. Trong cái bây giờ đó, có buông xuôi. “Buông xuôi của tôi là hướng
đích,” bạn nói, “Tôi buông xuôi để được tự do.”
Nhưng bạn là tự do! Bạn chưa bao giờ không tự do cả. Bạn là
tự do, nhưng lần nữa lại có cùng vấn đề: bạn muốn được tự do, nhưng bạn không
hiểu rằng bạn có thể tự do chỉ khi bạn tự do khỏi chính mình - không có tự do
nào khác. Khi bạn nghĩ về tự do, bạn nghĩ dường như bạn sẽ có đó và tự do. Bạn
không có đó; sẽ có tự do. Tự do có nghĩa là tự do khỏi cái ta, không phải là tự
do của cái ta.
Khoảnh khắc nhà tù biến mất thì tù nhân cũng biến mất, bởi
vì tù nhân chính là nhà tù! Khoảnh khắc bạn thoát khỏi nhà tù, bạn cũng không
có đó. Có bầu trời thuần khiết, không gian thuần khiết. Không gian thuần khiết
đó được gọi là niết bàn, moksha, giải thoát. Cố hiểu thay vì cố đạt tới.
“Tôi đang buông xuôi để được tự do.”
Thế thì bạn đang dùng buông xuôi như phương tiện, và buông
xuôi là mục đích, là bản thân cái đích. Khi tôi nói buông xuôi là mục đích, tôi
không nói rằng buông xuôi phải được đạt tới ở đâu đó trong tương lai. Tôi đang
nói rằng buông xuôi không phải là phương tiện, tự nó là mục đích. Không phải là
việc buông xuôi đem lại tự do, buông xuôi là tự do! Chúng là đồng nghĩa, chúng
có nghĩa một thứ. Bạn đang nhìn vào cùng thứ từ hai góc khác nhau.
“Cho nên nó không phải là việc buông xuôi chút nào.”
Điều ấy không là thực mà cũng chẳng không thực. Điều ấy
không phải là buông xuôi chút nào. Nó thậm chí cũng chẳng phải là không thực.
“Tôi đang quan sát nó, nhưng vấn đề là: đấy bao giờ cũng là
cái ‘tôi’ người đang quan sát. Do đó mọi việc hiểu của cái quan sát đó chỉ làm
mạnh thêm bản ngã. Tôi cảm thấy bị bản ngã mình lừa.”
Ai là cái ‘tôi’ này mà bạn đang nói tới, người cảm thấy bị lừa
bởi bản ngã? Nó lại chính là bản thân bản ngã vậy. Bản ngã là cái mà nó có thể
phân chia mình thành nhiều đoạn, nhiều phần, và thế rồi trò chơi bắt đầu. Bạn
là kẻ đi săn và bạn là con mồi. Cũng giống như con chó cố gắng cắn đuôi mình,
và cứ nhảy vòng tròn. Và bạn nhìn và bạn thấy cái ngớ ngẩn của nó - nhưng bạn
thấy cái ngớ ngẩn, con chó thì không thể thấy được. Nó càng tìm đuôi thì lại
càng khó cắn đuôi, nó lại càng trở nên điên dại, nó lại càng nhảy nhiều hơn.
Cái nhảy càng nhanh và mạnh hơn thì đuôi cũng nhảy càng nhanh và mạnh hơn. Và
con chó không thể nào nhận ra điều gì đang xảy ra: nó là kẻ vồ bắt vĩ đại thế về
mọi thứ, thế mà cái đuôi tầm thường này, mà nó lại không thể nào vồ bắt được
sao?
Đây chính là điều đang xảy ra cho bạn. Đấy là cái ‘tôi’ đang
cố gắng vồ bắt, và người đó đồng thời là kẻ vồ bắt lẫn cái bị vồ. Thấy cái kì cục
của nó đi, và chính trong cái nhìn thấy đó bạn sẽ được tự do với nó.
Chẳng có gì phải làm cả - không việc gì, tôi nói, bởi vì bạn
đã là cái bạn muốn trở thành. Các bạn là chư phật, các bạn chưa bao giờ là cái
gì khác. Thấy là đủ. Và khi bạn nói rằng, “Tôi đang quan sát,” lần nữa đấy lại
là cái ‘tôi’. Quan sát, cái ‘tôi’ sẽ lại được tạo ra, bởi vì quan sát là hành động,
có nỗ lực trong đó. Bạn đang quan sát - thế thì ai quan sát? Thảnh thơi đi.
Trong thảnh thơi - khi không có gì cần phải quan sát và không có ai là người
quan sát, khi bạn không bị phân chia thành nhị nguyên - có nảy sinh một phẩm chất
khác của chứng kiến. Đấy không phải là quan sát, đấy chỉ là nhận biết thụ động;
thụ động, tôi nói - nhớ lấy. Chẳng có gì năng nổ trong đó. Quan sát là rất năng
nổ: nỗ lực cần có, bạn phải căng thẳng. Nhưng đừng căng thẳng, cứ thảnh thơi.
Chỉ ở đó. Trong tâm thức đó khi bạn đơn giản ở đó, ngồi không làm gì, xuân tới
và cỏ tự nó mọc lên.
Đó là toàn bộ cách tiếp cận phật giáo: rằng bất kì cái gì mà
bạn làm cũng sẽ tạo ra và nâng cao người làm - quan sát cũng vậy, suy nghĩ cũng
vậy, buông xuôi cũng vậy. Bất kì cái gì bạn làm cũng đều sẽ tạo ra bẫy. Chẳng cần
cái gì phải được làm về phần bạn cả. Chỉ cần có đấy... và để mọi thứ xảy ra. Đừng
cố gắng điều khiển, đừng cố gắng thao tác. Để cho cơn gió thoảng qua, để cho
tia sáng mặt trời tới, để cho cuộc sống nhảy múa, và để cho cái chết tới và để
cho nó nhảy múa trong bạn nữa.
Đây là ý nghĩa của tôi cho tính chất sannyas: đấy không phải
là cái gì đó mà bạn làm, mà là khi bạn buông bỏ tất cả việc làm và bạn thấy cái
ngớ ngẩn của việc làm. Bạn là ai để mà làm? Bạn chỉ là một con sóng trong đại
dương này. Hôm nay bạn có đấy, ngày khác bạn sẽ biến mất; đại dương vẫn tiếp tục.
Tại sao bạn phải lo nghĩ thế?
Bạn tới, bạn biến mất. Trong khi đó, với cái khoảng nhỏ bé
này, bạn trở nên lo nghĩ và căng thẳng đến thế, và bạn mang tất cả những gánh nặng
này trên đôi vai mình, rồi bạn mang những tảng đá trên trái tim mình - chẳng bởi
lí do gì hết cả.
Bạn tự do ngay chính khoảnh khắc này! Tôi tuyên bố bạn đã chứng
ngộ ngay chính khoảnh khắc này. Nhưng bạn không tin cậy vào tôi. Bạn nói, “Phải
đấy, Osho, nhưng nói cho chúng tôi cách trở thành chứng ngộ.”
Việc trở thành đó, việc đạt tới đó, ham muốn đó, cứ tiếp tục
nhảy trên mọi vật mà bạn có thể thấy. Đôi khi nó là tiền bạc, đôi khi nó là Thượng
đế. Đôi khi nó là quyền lực, đôi khi nó là thiền - nhưng bất kì đối tượng nào,
và bạn bắt đầu vồ lấy nó. Không vồ bắt là cách sống cuộc sống thực, cuộc sống
đúng đắn, không vồ bắt, không sở hữu.
Để cho mọi việc xảy ra, để cho cuộc sống là việc xảy ra, và
có niềm vui, có vui vẻ - bởi vì thế thì không có thất vọng bao giờ, bởi vì ngay
chỗ đầu tiên bạn chưa bao giờ trông đợi vào bất kì cái gì. Bất kì cái gì tới
cũng đều tốt, đều được hoan nghênh. Không có thất bại, không có thành công. Trò
chơi thất bại và thành công đã bị loại bỏ. Mặt trời tới vào buổi sáng và đánh
thức bạn, còn mặt trăng tới vào buổi tối và ca lên bài hát ru con và bạn đi ngủ.
Cơn đói tới và bạn ăn, và cứ thế mãi. Đó là điều các thiền sư vẫn ngụ ý khi họ
nói: Khi đói, ăn, khi buồn ngủ, ngủ và chẳng có gì khác phải làm cả.
Mà tôi cũng không dậy bạn bất hoạt. Không nói đừng đi và đừng
làm, tôi không nói đừng kiếm cơm, tôi không nói từ bỏ thế giới và phụ thuộc vào
người khác và trở thành kẻ bóc lột; không, không phải chút nào. Nhưng đừng là
người làm. Thế đấy, khi bạn đói, bạn phải ăn, còn khi bạn phải ăn thì bạn phải
ăn cơm - nhưng không có ai làm việc đó. Chính bản thân cơn đói đang làm việc;
không có người nào khác làm việc đó. Chính bản thân cơn khát đang đưa bạn hướng
tới giếng hay hướng tới sông. Chính bản thân cơn khát di chuyển; không có ai là
cơn khát. Bỏ danh từ và đại từ trong cuộc sống của bạn và để động từ sống.
Phật nói: Chân lí là ở chỗ khi ông thấy một vũ công, thì
không có vũ công mà chỉ có điệu vũ. Khi ông thấy sông, thì không có sông mà chỉ
có việc sông chảy. Khi chúng ta thấy cây, thì không có cây mà chỉ có việc thành
cây. Khi bạn thấy nụ cười, thì không có ai đang mỉm cười, chỉ có nụ cười, cái
cười. Khi bạn thấy tình yêu, thì không có ai là người yêu mà chỉ có việc yêu.
Cuộc sống là quá trình.
Nhưng chúng ta đã quen nghĩ dưới dạng danh từ tĩnh tại. Điều
đó tạo ra rắc rối. Và chẳng có gì tĩnh tại cả - tất cả đều là một luồng và tuôn
chảy. Tuôn chảy với điều này, tuôn chảy với dòng sông này, và đừng bao giờ là
người làm. Thậm chí khi bạn đang làm, cũng đừng là người làm. Có việc làm nhưng
không có người làm. Một khi sáng suốt này lắng đọng vào trong bạn, chẳng có gì
khác cả.
Chứng ngộ không phải là cái gì giống như mục đích phải đạt tới.
Nó chính là cuộc sống bình thường này, cuộc sống đơn giản này đang bao quanh bạn.
Nhưng khi bạn không tranh đấu, cuộc sống bình thường này trở thành đẹp đẽ phi
thường. Thế thì cây cối còn xanh hơn, thế thì chim chóc cất tiếng hót còn nhiều
cung bậc hơn, thế thì mọi thứ đang xảy ra xung quanh đều là quí giá... thế thì
đá cuội thông thường cũng là kim cương. Chấp nhận cuộc sống đơn giản này, thông
thường này. Chỉ cần bỏ là người làm. Và khi tôi nói bỏ người làm, bạn cũng đừng
trở thành người bỏ! Cứ nhìn vào trong thực tại này về nó, nó biến mất.
Câu hỏi thứ ba:
Osho kính yêu,
Liệu có khác biệt gì giữa ‘shunyavada’ của Nagarjuna và
‘avyakritopadesh’, giáo huấn không nói ra và không xác định nổi của Phật không?
Không có khác biệt chút nào. Nếu khác biệt dường như có đó,
đấy chỉ là bởi vì cách phát biểu. Nagarjuna* là một triết gia vĩ đại, một trong
những người vĩ đại nhất thế giới. Chỉ vài người trên thế giới, rất ít người, mới
có phẩm chất xuyên thấu mà Nagarjuna có. Cho nên, cách nói của ông ấy là rất
triết học, logic, tuyệt đối logic. Phật là nhà huyền môn, không phải triết gia.
Cách nói của ông ấy thì mang nhiều tính thơ ca hơn là triết lí. Cách tiếp cận
là khác, nhưng Nagarjuna nói đích xác hệt những điều như Phật nói. Cách phát biểu
của họ chắc chắn là khác nhau, nhưng điều họ đang nói phải được hiểu.
Bạn hỏi - câu hỏi này là từ Omanath Bharti - “Liệu có khác
biệt gì giữa shunyavada...” Shunyavada có nghĩa là lí thuyết, triết học về cái
không. Trong tiếng Anh không có từ nào có thể tương đương, xấp xỉ tương đương,
với shunya. Shunya có nghĩa là cái trống rỗng; nhưng không phải là cái trống rỗng
tiêu cực, mà rất tích cực. Nó có nghĩa là cái không, nhưng nó không đơn giản
nghĩa là cái không; nó có nghĩa là tính chất về cái không.
Shunya có nghĩa là hư vô, hư vô về mọi thứ. Nhưng bản thân
cái hư vô có đấy, với sự hiện diện hoàn toàn, cho nên nó không chỉ là hư vô. Nó
cũng tựa như bầu trời trống rỗng, chính là không gian thuần khiết, nhưng nó có
đấy. Mọi thứ tới trong nó và đi, mà nó thì còn lại.
Shunya cũng tựa như bầu trời - sự hiện diện thuần khiết. Bạn
không thể động chạm tới nó mặc dầu bạn sống trong nó. Bạn không thể thấy nó mặc
dầu bạn chẳng bao giờ có thể hiện hữu mà không có nó. Bạn tồn tại trong nó; hệt
như cá tồn tại trong đại dương, bạn tồn tại trong không gian, trong shunya.
Shunyavada có nghĩa là mọi thứ nảy sinh ra từ cái không có gì.
Mới vài phút trước đây tôi đã nói cho các bạn về khác biệt
giữa chân lí và thực tại. Thực tại có nghĩa là thế giới của các vật, còn chân
lí có nghĩa là thế giới của cái không có gì, cái không - shunya. Tất cả mọi vật
đều nảy sinh từ cái không và tan biến trở lại vào trong cái không.
Trong Upanishad có câu chuyện:
Svetaketu trở về nhà từ nhà thầy, trở về với bố mẹ mình. Anh
ta đã học tất cả. Bố anh ta, Uddalaka, một triết gia lớn, nhìn vào anh ta và
nói, “Svetaketu, con đi ra ngoài và đem quả của cây ở đằng kia lại đây.”
Anh ta đi ra ngoài, đem lại quả cây. Và người bố nói, “Đập
nó ra. Con thấy gì trong nó?” Có nhiều hạt mầm trong nó. Rồi người bố lại nói,
“Lấy một hạt và đập nó ra. Con thấy gì trong nó?”
Anh chàng ta nói, “Chẳng có gì ạ.” Thế là người bố nói, “Mọi
thứ đều nảy sinh ra từ cái không này. Cái cây lớn này, lớn đến mức một nghìn
chiếc xe bò kéo có thể ẩn dưới tán lá của nó, đã nảy sinh ra chỉ từ một hạt mầm.
Và con đập hạt mầm ra và con chẳng thấy gì ở đó cả. Đây là điều bí ẩn của cuộc
sống - mọi thứ đều nảy sinh từ cái không. Và rồi một ngày nào đó cái cây biến mất,
và con cũng chẳng biết ở đâu; con không thể tìm thấy nó ở bất kì đâu.”
Con người cũng vậy: chúng ta nảy sinh từ cái không, và chúng
ta là cái không, và chúng ta biến mất vào trong cái không. Đây là shunyavada.
Và avyakritopadesh của Phật, giáo huấn không nói ra và không
định nghĩa nổi là gì? Nó cũng cùng là điều đó. Ông ấy chưa bao giờ làm cho nó
thành rõ ràng về mặt triết học như Nagarjuna đã làm. Đó là lí do tại sao ông ấy
chưa bao giờ nói về nó. Đó là lí do tại sao ông ấy lại nói nó là không thể nào
xác định nổi; điều đó không thể nào được đem tới mức độ của ngôn ngữ. Ông ấy giữ
im lặng về nó.
Bạn có biết Bài thuyết giảng Hoa không? Một hôm ông ấy tới với
hoa sen trong tay và ngồi im lặng, chẳng nói điều gì. Và mười nghìn đệ tử có
đó, mười nghìn khất sĩ bhikkhus có đó, và họ cứ đợi ông ấy nói điều gì đó, còn
ông ấy thì cứ nhìn vào hoa sen. Có im lặng lớn lao, và thế rồi có bất an lớn nữa.
Mọi người bắt đầu bồn chồn - “Ông ấy đang làm gì thế nhỉ? Ông ấy chưa bao giờ
làm như thế trước đây.”
Thế rồi một đệ tử, Mahakashyapa*, mỉm cười. Phật gọi
Mahakashyapa lại, trao cho ông ấy hoa sen, và nói với toàn thể hội chúng, “Điều
có thể nói ta đã nói cho các ông, còn điều không thể nói ra được thì ta trao
cho Mahakashyapa.”
Đây là avyakritopadesh, đây là thông điệp không xác định nổi.
Đây là ngọn nguồn của thiền phật giáo, việc truyền trao. Cái gì đó đã được Phật
truyền cho Mahakashyapa, điều gì đó là cái không; trên bình diện thấy được thì
là cái không - không lời, không kinh sách, không lí thuyết - nhưng cái gì đó đã
được truyền trao. Cái gì vậy?
Các thiền sư đã từng thiền về điều này suốt hai nghìn năm
trăm năm: “Cái gì vậy? Cái gì đã được truyền trao? Cái gì đích xác đã được
trao?” Trong thực tế, chẳng có gì đã được trao từ Phật sang Mahakashyapa;
Mahakashyapa chắc chắn đã hiểu điều gì đó. Ông ấy đã hiểu im lặng, ông ấy đã hiểu
im lặng xuyên thấu. Ông ấy đã hiểu khoảnh khắc sáng tỏ đó, khoảnh khắc vô suy
nghĩ hoàn toàn đó. Ông ấy trở thành một, trong khoảnh khắc đó, với Phật. Đó là
buông xuôi là gì. Không phải là ông ấy làm điều đó: Phật vẫn im lặng và ông ấy
cũng im lặng, và những cái im lặng đó gặp nhau, và hai cái im lặng đó tan biến
vào lẫn nhau. Và hai cái im lặng đó không thể vẫn còn tách biệt được, nhớ lấy,
bởi vì cái im lặng không có biên giới, cái im lặng là vô biên, cái im lặng đơn
giản là cởi mở, cởi mở từ mọi phía. Trong hội chúng vĩ đại mười nghìn sư có hai
người im lặng vào ngày đó - Phật và Mahakashyapa. Những người khác vẫn còn ở
ngoài.
Mahakashyapa và Phật gặp nhau: đó là là lí do tại sao ông ấy
mỉm cười - bởi vì đó là buổi thuyết giảng lớn nhất mà Phật đã giảng. Không nói
lấy một lời mà ông ấy đã nói tất cả, tất cả những cái có thể nói - và tất cả những
cái không thể nói nữa.
Mahakashyapa đã hiểu và cười to. Trong cái cười đó
Mahakashyapa biến mất hoàn toàn, trở thành vị phật. Ngọn lửa từ chiếc đèn của
Phật đã nhảy sang Mahakashyapa. Điều đó được gọi là ‘việc truyền trao bên ngoài
kinh sách’ - Buổi thuyết giảng Hoa. Đó là điều duy nhất trong lịch sử tâm thức
con người. Đó là điều được gọi là avyakritopadesh: lời không nói, lời không thốt
ra.
Im lặng trở thành bản chất thế, rắn chắc thế; im lặng trở
thành thực thế, tồn tại đến thế; im lặng trở thành rõ ràng đến thế trong khoảnh
khắc đó. Phật là cái không, Mahakashyapa cũng hiểu cái không nghĩa là gì, hoàn
toàn trống rỗng nghĩa là gì.
Không có khác biệt giữa shunyavada của Nagarjuna và thông điệp
không nói ra của Phật. Nagarjuna là một trong những đệ tử vĩ đại nhất của Phật,
và là một trong những người hiểu biết sắc sảo nhất. Chỉ rất ít người – có thời
là Socrates, Shankara - có thể sánh được với Nagarjuna. Ông ấy rất, rất thông
minh. Điều tột bực mà người hiểu biết có thể làm là tự tử; điều vĩ đại nhất, đỉnh
cao vĩ đại nhất mà có thể tới cho người hiểu biết là vượt ra ngoài chính mình -
đó là điều Nagarjuna đã làm. Ông ấy đã vượt qua tất cả các lĩnh vực của hiểu biết,
và vượt ra ngoài.
Các nhà thực chứng logic nói rằng cái không đơn thuần là trừu
tượng. Trong những thể nghiệm khác nhau của những câu phủ định - chẳng hạn: cái
này không ngọt, tôi không khoẻ, tôi không ở đó, anh ấy không thích tôi vân vân
và vân vân - thì phủ định không có bản chất của riêng nó. Đây là điều các nhà
thực chứng logic nói. Phật không đồng ý, Nagarjuna không đồng ý. Martin
Heidegger, một trong những người hiểu biết sâu sắc nhất của thời hiện đại, cũng
không đồng ý.
Heidegger nói có một kinh nghiệm thực tại về cái không. Đấy
không phải chỉ là cái gì đó do ngôn ngữ tạo ra; có một kinh nghiệm thực tại về
cái không. Nó nhất định không tách rời với sự hiện hữu. Kinh nghiệm xác nhận
cho điều này là kinh nghiệm về khiếp hãi.
Kierkegaard, triết gia Đan mạch, cũng hỏi, “Cái không tạo ra
hiệu quả gì?” và trả lời, “Nó gây ra khiếp hãi.” Cái không là một kinh nghiệm
thực tại. Hoặc bạn có thể kinh nghiệm nó trong thiền sâu, hoặc khi cái chết tới.
Chết và thiền là hai khả năng kinh nghiệm nó. Thế đấy, đôi khi bạn có thể kinh
nghiệm nó cả trong tình yêu nữa. Nếu bạn tan biến trong ai đó trong tình yêu
sâu sắc thì bạn có thể kinh nghiệm một loại cái không. Đó là lí do tại sao người
ta sợ tình yêu - họ chỉ đi sâu thế, rồi hoảng sợ nổi lên, thế là họ sợ. Đó là
lí do tại sao rất ít người vẫn còn cực thích - bởi vì cực thích cho bạn kinh
nghiệm về cái không. Bạn biến mất, bạn tan ra trong cái gì đó và bạn không biết
nó là gì. Bạn đi vào trong cái không xác định nổi, avyakrit. Bạn vượt ra ngoài
xã hội. Bạn đi vào trong một đơn vị nào đó nơi tách biệt là không hợp lệ, nơi bản
ngã không tồn tại. Và điều đó gây ra sợ, bởi vì nó giống như chết.
Cho nên nó là kinh nghiệm, hoặc trong tình yêu, cái mà mọi
người đã học để tránh né - cho nên biết bao nhiêu người cứ khao khát mãi tình
yêu, và cứ phá huỷ tất cả các khả năng cho nó bởi vì sợ cái không - hay, trong
thiền sâu khi ý nghĩ dừng lại. Bạn đơn giản thấy chẳng có gì bên trong cả,
nhưng cái không đó có sự hiện diện; nó không đơn giản là việc thiếu vắng ý
nghĩ, nó là sự hiện diện của cái gì đó chưa biết, bí ẩn, một cái gì đó rất lớn
lao. Hay, bạn có thể kinh nghiệm nó trong cái chết, nếu bạn tỉnh táo. Mọi người
thường chết trong vô ý thức. Nếu bạn chết có ý thức... Và bạn có thể chết có ý
thức chỉ khi bạn chấp nhận hiện tượng chết, và bởi điều đó mà người ta phải học
trong toàn bộ cuộc sống, để chuẩn bị. Người ta phải yêu để sẵn sàng chết, và
người ta phải thiền để sẵn sàng chết. Chỉ người đã yêu và thiền mới có thể chết
có ý thức. Và một khi bạn chết có ý thức thế thì chẳng cần cho bạn phải quay lại
nữa, bởi vì bạn đã học bài học cuộc sống. Thế thì bạn tan biến trong cái toàn
thể; đó là niết bàn.
Những nhà thực chứng logic nhìn rất logic, nhưng họ bỏ lỡ điều
gì đó - bởi vì thực tại thì còn nhiều hơn là logic. Trong kinh nghiệm thông thường
chúng ta chỉ đi tới điều họ nói: cái ghế này ở đây, nó sẽ bị bỏ đi, thế thì bạn
sẽ nói không có ghế ở đó. Điều đó đơn giản chỉ ra việc thiếu vắng - cái ghế đã
bị bỏ đi. Đây là những thí dụ thông thường về cái không: có thời đã có một ngôi
nhà và thế rồi nó đã bị triệt phá, nó không còn ở đấy nữa. Nó chỉ là sự thiếu vắng.
Nhưng có cái không nằm sâu ở bên trong bản thể bạn, tại
chính cốt lõi. Tại chính cốt lõi cuộc sống, cái chết tồn tại. Cái chết là trung
tâm của cơn xoáy lốc. Trong tình yêu bạn tới gần điều đó, trong thiền bạn tới gần
điều đó, trong cái chết vật lí bạn cũng tới gần điều đó. Nó chính là việc đem lại
cuộc sống, nó chính là việc nâng cao cuộc sống. Người không thể ngủ sâu sẽ trở
nên ốm yếu, bởi vì chỉ trong giấc ngủ sâu, khi người đó chết đi trong độ sâu nhất
của mình, người đó mới thu lại cuộc sống, năng lượng, sức sống. Buổi sáng người
đó lại tươi tắn và đầy say mê, thích thú - sống động, lại sôi nổi.
Học chết đi! Đó là nghệ thuật lớn lao nhất cần phải học, kĩ
năng lớn lao nhất có đó.
Quan điểm của Heidegger tới rất gần với quan điểm của Phật,
và ngôn ngữ của ông ấy rất hiện đại, đó là lí do tại sao tôi trích dẫn ông ấy.
Ông ấy nói: “Mọi sinh linh, chừng nào đấy vẫn còn là một sinh linh, đều được tạo
nên từ cái không.” Có cả song hành với học thuyết Ki tô giáo nữa - rất lôi
thôi, bởi vì các nhà thượng đế học Ki tô giáo không thể đảm đương được điều đó,
nó là quá nhiều. Học thuyết đó là creatio ex nihilo: sự sáng tạo là từ cái
không.
Nếu bạn hỏi nhà vật lí hiện đại, ông ta sẽ đồng ý với Phật:
bạn càng đi sâu hơn vào vật chất, mọi vật bắt đầu biến mất. Một khoảnh khắc tới,
khi nguyên tử bị phân chia - vật hoàn toàn biến mất. Thế thì có các điện tử,
nhưng chúng không còn là vật nữa, chúng là cái không vật. Rất khó để hiểu.
Nhưng vật lí, vật lí hiện đại, đã tới rất gần với siêu hình - bởi vì nó tới
ngày một gần hơn với thực tại hàng ngày. Nó đang tiến qua vật chất, nhưng đi tới
cái không. Bạn biết vật chất không tồn tại nữa trong vật lí hiện đại. Vật chất
chỉ là ảo tưởng: nó chỉ xuất hiện, nó không có đó. Tính rắn chắc của nó, cái chất
liệu của nó, là ảo tưởng; chẳng có gì là bản chất cả, tất cả đều là luồng và
năng lượng. Vật chất không là gì ngoài năng lượng. Và khi bạn đi sâu hơn vào
trong năng lượng, thì năng lượng cũng không phải là vật, nó là cái không-vật.
Cái chết là điểm mà tại đó tri thức thành giả tạm, và chúng
ta trở thành cởi mở với bản thể - cái đã từng là kinh nghiệm của phật tử qua
nhiều thời đại. Phật hay phái các đệ tử của mình, khi có một ai đó chết, đến
xem thân thể đang cháy trên dàn hoả thiêu: “Thiền ở đó đi, thiền về cái không của
cuộc sống.” Cái chết là điểm mà tại đó tri thức thành giả tạm, và khi tri thức
thành giả tạm thì tâm trí cũng giả nốt. Và khi tâm trí là giả thì có khả năng
chân lí thấm vào bạn.
Nhưng mọi người không biết. Khi ai đó chết đi bạn không biết
phải làm gì, bạn rất bối rối. Khi ai đó chết đi, đấy là khoảnh khắc lớn lao để
thiền.
Tôi bao giờ cũng nghĩ rằng mỗi thành phố đều cần một Trung
tâm chết. Khi ai đó hấp hối và cái chết của người đó là sắp xảy ra đến nơi, người
đó nên được chuyển vào Trung tâm chết. Nó nên là một ngôi đền nhỏ nơi những người
có thể đi sâu vào thiền nên ngồi quanh người đó, giúp người đó chết, và nên thực
hành trong bản thể người đó khi người đó tan biến trong cái không. Khi ai đó biến
mất trong cái không, năng lượng lớn được thoát ra. Năng lượng đã có đó, bao
quanh người ấy, đang thoát ra. Nếu bạn ở trong không gian im lặng quanh người
đó, bạn sẽ tiếp tục cuộc hành trình lớn. Không trạng thái phiêu diêu nào có thể
đưa bạn tới được chỗ đó.
Người này tự nhiên để thoát ra năng lượng lớn; nếu bạn có thể
hấp thu năng lượng đó, bạn cũng sẽ có một loại chết cùng với người đó. Và bạn sẽ
thấy điều tối thượng - ngọn nguồn và cái đích, cái bắt đầu và cái kết thúc.
“Con người là sinh linh mà qua đó cái không đi vào trong thế
giới,” Jean-Paul Sartre nói. Tâm thức không phải là vật này hay vật kia, nó
không phải là bất kì vật nào cả; nhưng có chắc nó là bản thân nó không?
“Không,” Sartre nói, “chính xác vấn đề là không. Tâm thức chưa bao giờ đồng nhất
với chính mình. Do vậy, khi tôi phản xạ bản thân mình, thì cái ta được phản xạ
là khác cái ta phản xạ. Khi tôi cố gắng phát biểu tôi là gì, tôi thất bại, bởi
vì trong khi tôi đang nói, cái tôi đang nói trượt vào trong quá khứ và trở
thành cái tôi đã là. Tôi là quá khứ của mình và tương lai của mình, vậy mà tôi
lại không có. Tôi đã từng là người này, và tôi sẽ là người khác. Nhưng trong hiện
tại, có cái không.”
Nếu ai đó hỏi bạn, “Bạn là ai?” thì bạn sẽ định nói gì nào?
Hoặc bạn có thể trả lời từ quá khứ, mà không còn nữa, hoặc bạn có thể trả lời từ
tương lai, cái mà bạn còn chưa có. Nhưng ngay khoảnh khắc này bạn là ai? Không
ai cả, cái không. Cái không này là chính cốt lõi, tâm điểm - tâm điểm của bản
thể bạn.
Cái chết không phải là chiếc rìu đốn ngã cây cuộc sống, nó
là quả trưởng thành trên cây đó. Cái chết chính là chất liệu tạo nên bạn. Cái
không là chính bản thể của bạn. Việc đạt tới cái không này hoặc là qua tình yêu
hoặc là qua thiền, và người ta cứ có thoáng nhìn về nó. Đây là điều Nagarjuna
ngụ ý bởi shunya. Đây là điều Phật truyền trao cái ngày hôm ấy khi ông ấy tiến
hành Buổi thuyết giảng Hoa. Đây là điều Mahakashyapa đã hiểu khi ông ấy cười
to. Ông ấy thấy cái không, và thuần khiết của nó, hồn nhiên của nó, hồn nhiên
nguyên thuỷ của nó, toả sáng của nó, bất tử của nó - bởi vì cái không không thể
chết được. Mọi thứ đều chết; cái không là bất tử, vĩnh hằng.
Nếu bạn bị đồng nhất với bất kì cái gì, bạn sẽ phải chịu đựng
cái chết. Nhưng nếu bạn biết rằng bạn là cái chết, làm sao bạn có thể phải chịu
đựng cái chết? Thế thì chẳng cái gì có thể phá huỷ được bạn; cái không là không
thể huỷ diệt nổi.
Một chuyện ngụ ngôn của phật giáo kể rằng Diêm vương hỏi một
linh hồn mới tới liệu trong khi sống người đó có gặp ba người đưa tin của cõi
trời không. Và khi người đó trả lời, “Không, tâu Diêm vương, tôi không gặp,”
thì ông ấy lại hỏi liệu người đó có gặp một ông già còng lưng vì tuổi tác, hay
một người nghèo khó ốm yếu không bè bạn, hay một người chết không?
Phật tử gọi ba loại người này là ‘ba người đưa tin của Thượng
đế’: tuổi già, bệnh tật, cái chết - ba người đưa tin của Thượng đế. Tại sao? -
bởi vì chỉ qua những kinh nghiệm này trong cuộc sống mà bạn mới trở nên nhận biết
về cái chết. Và nếu bạn trở nên nhận biết về cái chết và bạn bắt đầu học cách
đi vào trong nó, cách thức đón chào nó, cách thức tiếp nhận nó, bạn được thoát
khỏi cảnh nô lệ, thoát khỏi bánh xe sống và chết.
Heidegger nói, và Soren Kierkegaard cũng nói thế, rằng cái
không tạo ra khiếp sợ. Đấy mới chỉ là một nửa câu chuyện. Bởi vì hai người này
chỉ là các triết gia, đó là lí do tại sao điều ấy lại tạo ra khiếp sợ. Nếu bạn
hỏi Phật, Mahakashyapa, Nagarjuna, nếu bạn hỏi tôi, thì cái chết được nhìn với
chỉ một phần sẽ tạo ra khiếp sợ; được nhìn một cách tuyệt đối, toàn bộ, thì nó
giải phóng bạn khỏi mọi khiếp sợ, khỏi mọi đau khổ, khỏi mọi lo âu, nó giải
phóng bạn khỏi luân hồi samsara... bởi vì nếu bạn nhìn một phần thôi, nó tạo ra
sợ hãi rằng bạn đang sắp chết, rằng bạn sẽ trở thành cái không, rằng chẳng mấy
chốc bạn sẽ biến mất. Và tự nhiên bạn cảm thấy bồn chồn, run rẩy, mất gốc. Nếu
bạn nhìn vào cái chết một cách toàn bộ, thế thì bạn biết bạn là cái chết, bạn
được tạo nên từ nó. Cho nên chẳng có gì sắp biến mất cả, chẳng có gì sắp còn lại
cả. Chỉ cái không là có đấy.
Phật giáo không phải là tôn giáo yếm thế như nhiều người đã
từng coi là vậy. Phật giáo là cách thức gạt bỏ cả lạc quan và bi quan, gạt bỏ
nhị nguyên.
Bắt đầu thiền về chết đi. Và bất kì khi nào bạn cảm thấy cái
chết tới gần, đi vào trong nó qua cánh cửa tình yêu, qua cánh cửa thiền, qua
cánh cửa của người đang chết. Và nếu một ngày nào đó bạn sắp chết - và ngày ấy
đang tới qua từng ngày một - đón nhận nó trong vui vẻ, phúc lành. Và nếu bạn có
thể đón nhận cái chết trong vui vẻ và phúc lành, bạn sẽ đạt tới đỉnh lớn lao nhất,
bởi vì cái chết là đỉnh cao của cuộc sống. Ẩn giấu trong nó là cực thích lớn nhất,
bởi vì ẩn giấu trong nó là tự do lớn nhất.
Cái chết đang làm tình với Thượng đế, hay Thượng đế đang làm
tình với bạn. Cái chết là cực thích toàn bộ, vũ trụ. Cho nên vứt tất cả những ý
tưởng rằng bạn đang mang cái chết đi - chúng là nguy hiểm. Chúng làm cho bạn đối
kháng với kinh nghiệm lớn lao nhất mà bạn cần phải có. Nếu bạn để lỡ cái chết,
bạn sẽ được sinh ra nữa.
Chừng nào mà bạn còn chưa học được cách chết, bạn sẽ còn tiếp
tục được sinh ra nữa và nữa và nữa. Đây là bánh xe, luân hồi samsara, thế gian.
Một khi bạn đã biết đến cực thích lớn nhất, thế thì không cần nữa; bạn biến mất,
và bạn vẫn còn trong cực thích đó mãi mãi. Bạn không còn giống bạn, bạn không
còn như một thực thể, bạn không còn được xác định, được đồng nhất với bất kì
cái gì. Bạn vẫn còn như một tổng thể, không phải như bộ phận.
Đây là shunyavada của Nagarjuna, và đây cũng là thông điệp
không nói ra, lời không nói ra của Phật. Chúng cả hai là một.
Câu hỏi cuối cùng:
Osho kính yêu, tôi sợ làm sannyasin, mặc dầu tôi bị hấp dẫn
ghê lắm. Tôi sợ bởi vì chồng. Tôi nghĩ anh ấy sẽ có thể không hiểu điều đó.
Bạn không kính trọng mấy với chồng mình. Bạn có cho là anh ấy
ngu đần hay cái gì đó như thế không? Tại sao anh ấy không thể nào hiểu được điều
đó? Nếu anh ấy yêu bạn, anh ấy sẽ hiểu điều đó. Tình yêu là hiểu biết.
Nếu anh ấy không yêu bạn, thế thì dù bạn có làm sannyasin
hay không, anh ấy cũng chẳng định hiểu bạn. Điều thứ hai: nếu anh ấy không hiểu
tính chất sannyas của bạn, đấy là vấn đề của anh ấy. Bạn có cuộc sống của bạn.
Chớ bao giờ thoả hiệp, nếu không bạn sẽ bị lỡ nhiều lắm đấy. Đừng bao giờ thoả
hiệp! Nếu bạn cảm thấy thích trở thành sannyasin, trở thành sannyasin đi. Nhận
lấy mạo hiểm đi. Nếu anh ấy yêu bạn thì không có vấn đề gì, anh ấy sẽ hiểu - bởi
vì tình yêu đem lại tự do. Nếu anh ấy không yêu bạn thế thì sẽ có khó khăn cho
anh ấy, bởi vì anh ấy sẽ cảm thấy bạn đang thoát ra khỏi sở hữu của anh ấy.
Nhưng cúi mình trước khả năng như thế là tự tử. Đó là vấn đề của anh ấy. Bạn phải
sống cuộc sống của bạn, anh ấy phải sống cuộc sống của anh ấy.
Không ai nên cố gắng áp đặt điều gì lên người khác. Nhưng cảm
giác của tôi là ở chỗ bạn chắc phải cũng đang áp đặt mọi thứ lên anh ấy, đó là
lí do tại sao bạn sợ. Nếu bạn không áp đặt điều gì lên anh ấy, bạn có thể độc lập.
Nhưng đây là thu xếp đôi bên: mọi người là nô lệ lẫn cho nhau, và bất kì khi
nào bạn làm nô lệ của ai đó, thì nhớ lấy, bạn đang làm cho ai đó thành thầy của
bạn nữa.
Đấy là thu xếp lẫn nhau. Bạn phải cố gắng thao túng chồng
mình, bạn phải cố gắng áp đặt mọi thứ lên anh ấy, bạn phải làm cho anh ấy thành
què quặt. Bây giờ bạn muốn được độc lập, anh ấy sẽ khẳng định sự độc lập của
mình nữa. Thế thì anh ấy sẽ thích đi theo đường riêng của mình, và điều đó bạn
không thể chịu được. Đó là sợ hãi thật.
Nhưng nếu bạn không làm điều gì đó mà bạn thích, cái điều bạn
muốn làm, cái điều bạn muốn có, bạn sẽ chẳng bao giờ có thể tha thứ cho anh ấy.
Và bạn sẽ trả thù, và bạn sẽ giận dữ, và bạn sẽ cuồng nộ - bởi vì bạn sẽ thường
xuyên nghĩ bạn muốn trở thành sannyasin, và chỉ tại mỗi con người này... Và bạn
sẽ cảm thấy bị nhốt vào cũi, bị cầm tù. Không ai thích bị cầm tù cả. Thế thì
người ta ghét người là nguyên nhân cho cầm tù của mình, thế thì người ta cố gắng
trả thù theo nhiều cách tinh vi. Điều đó sẽ phá huỷ hôn nhân của bạn.
Đừng bao giờ tạo ra tình huống như thế mà trong đó bạn không
thể nào tha thứ được cho người khác. Chỉ hai người độc lập mới có thể tha thứ
được cho nhau. Các nô lệ không thể tha thứ được. Và ai mà biết được, điều đó có
thể giúp đỡ cho anh ấy nữa, theo cách nào đó.
Tôi đã đọc một chuyện tiếu lâm hôm nọ:
Hai nhà thám hiểm gặp nhau trong vùng hoang dã Amazon. Việc
trao đổi sau đây xảy ra.
Nhà thám hiểm thứ nhất: “Tôi đã đến đây bởi vì thôi thúc đi
lang thang trong máu mình. Nền văn minh làm tôi ốm yếu. Tôi thích thấy tự nhiên
dưới dạng nguyên sơ của nó. Tôi thích đặt dấu chân mình lên những nơi mà con
người còn chưa từng tới trước đây. Anh thì sao? Tại sao anh tới đây?”
Nhà thám hiểm thứ hai: “Vợ tôi đã trở thành sannyasin của
Osho, và cô ấy đang luyện Thiền Động vào buổi sáng và Kundalini vào buổi tối -
đó là lí do tại sao!”
Nhưng tốt! Nếu chồng bạn đi tới Amazon và trở thành nhà thám
hiểm, điều này đang cho anh ta cơ hội tốt để làm điều gì đó.
Đủ cho hôm nay.
* Trong các kinh sách cổ của Việt Nam vẫn dịch là Long Thọ
bồ tát
* Trong các kinh sách cổ của Việt Nam vẫn dịch là
Mahacadiếp
Xem tiếp Chương 3 - Quay về Mục lục