Tôi xin chào vị phật bên trong bạn. Bạn có thể không nhận biết
về điều đó, bạn có thể chưa từng mơ tới điều đó - rằng bạn là vị phật, rằng
không ai có thể là bất kì cái gì khác, rằng phật tính là cái cốt lõi tinh tuý
duy nhất của sự hiện hữu của bạn, rằng điều đó không phải là một cái gì đó xảy
ra trong tương lai, rằng nó đã xảy ra rồi. Nó chính là cội nguồn mà bạn tới từ
đó; nó chính là cội nguồn và cả mục đích nữa. Chính từ phật tính mà chúng ta
đi, và cũng chính phật tính đó mà chúng ta tới. Một từ này, phật tính, hàm chứa
tất cả - vòng tròn đầy đặn của cuộc sống, từ alpha tới omega.
Nhưng bạn đang ngủ say, bạn không biết mình là ai. Không phải
là bạn phải trở thành vị phật, mà là bạn phải nhận ra điều đó, mà là bạn phải
quay về với cội nguồn riêng của mình, mà là bạn phải nhìn vào bên trong mình.
Việc đương đầu với bản thân mình sẽ làm lộ ra phật tính của bạn. Cái ngày mà
người ta nhận ra chính mình, toàn bộ sự tồn tại trở thành chứng ngộ. Không phải
là một người trở thành chứng ngộ - làm sao một người có thể trở thành chứng ngộ
được? Chính ý tưởng về một người là một phần của tâm trí chưa chứng ngộ. Không
phải là tôi đã trở nên chứng ngộ; cái ‘tôi’ phải bị loại bỏ đi trước khi người
ta có thể trở nên chứng ngộ, cho nên làm sao tôi trở thành chứng ngộ được? Điều
đó là ngớ ngẩn. Cái ngày tôi trở nên chứng ngộ thì toàn bộ sự tồn tại cũng trở
nên chứng ngộ. Từ khoảnh khắc đó tôi không còn thấy bất kì cái gì khác hơn chư
phật - trong nhiều hình dạng, với nhiều tên, với cả ngàn lẻ một vấn đề, nhưng
chư phật vẫn tĩnh lặng.
Cho nên tôi xin chào vị phật bên trong bạn.
Tôi vui mừng vô biên rằng biết bao nhiêu vị phật đã tụ hội ở
đây. Chính sự kiện các bạn tới với tôi là bắt đầu của thừa nhận. Tôn kính trong
tim các bạn với tôi, tình yêu trong tim các bạn với tôi, là tôn kính và tình
yêu cho phật tính của riêng các bạn. Tin cậy vào tôi không phải là tin cậy vào
cái gì đó ngoại lai với bạn, tin cậy vào tôi là tin cậy vào cái ta. Bởi tin cậy
vào tôi bạn sẽ học tin cậy vào chính bạn. Bởi việc đến gần tôi, bạn sẽ tới gần
chính bản thân bạn. Chỉ cần phải đạt tới nhận ra. Kim cương có đấy - bạn đã
quên mất nó, hay bạn chưa bao giờ nhớ tới nó từ ngay lúc bắt đầu.
Có một lời nói rất nổi tiếng của Emerson: “Con người là Thượng
đế trong suy tàn.” Tôi đồng ý mà tôi cũng không đồng ý. Sáng suốt này có chân
lí nào đó trong nó - con người không phải như là con người đáng phải thế. Sáng
suốt có đó nhưng hơi lộn ngược lại một chút. Con người không phải là Thượng đế
trong suy tàn, con người là Thượng đế đang hình thành; con người là vị phật
đang trong nụ. Cái nụ có đó, nó có thể nở hoa vào bất kì khoảnh khắc nào: chỉ một
chút ít nỗ lực nữa, chỉ một chút ít giúp đỡ nữa... Và giúp đỡ không sắp gây ra
điều đó - điều đó đã có đấy rồi! Nỗ lực của bạn đang sắp làm lộ nó ra cho bạn,
giúp nó biểu hiện cái vẫn có đó, giấu kín. Đấy là khám phá, nhưng chân lí thì
đã có đấy rồi. Chân lí là vĩnh hằng.
Lắng nghe những lời kinh này bởi vì đây là những lời kinh
quan trọng nhất trong kho tàng phật giáo vĩ đại. Do đó chúng được gọi là Tâm
Kinh; nó ở chính tâm điểm của thông điệp của Phật.
Nhưng tôi muốn bắt đầu từ ngay chỗ bắt đầu. Từ điểm này chỉ
phật giáo mới trở thành có liên quan: để nó đấy trong tim bạn rằng bạn là vị phật.
Tôi biết điều đó có vẻ như quá tự kiêu, nó có vẻ như quá giả thuyết; bạn không
thể nào tin cậy vào nó hoàn toàn được. Điều đó là tự nhiên, tôi hiểu điều đó. Cứ
để nó đấy, như hạt mầm. Quanh sự kiện đó nhiều thứ sẽ bắt đầu xảy ra, và chỉ
quanh sự kiện đó mà bạn sẽ có thể hiểu những lời kinh này. Chúng mạnh mẽ vô
cùng - rất nhỏ, rất cô đọng, giống như hạt mầm. Nhưng với mảnh đất này, với viễn
kiến này trong tâm trí, rằng bạn là vị phật, rằng bạn là vị phật trong nụ, rằng
bạn có khả năng tiềm tàng trở thành cái một, rằng không có gì thiếu cả, tất cả
đã sẵn sàng, mọi thứ chỉ phải được đặt vào đúng trật tự, rằng một chút ít nhận
biết nữa là cần thiết, một chút ít ý thức nữa là cần thiết... Kho báu có đó; bạn
phải mang một ngọn đèn nhỏ vào trong nhà mình. Một khi bóng tối biến mất, bạn sẽ
không còn là kẻ ăn xin nữa, bạn sẽ là vị phật; bạn sẽ là hoàng đế, vua. Toàn bộ
vương quốc này là của bạn và bạn chỉ cần yêu cầu; bạn chỉ phải đòi lấy nó.
Nhưng bạn không đòi nó nếu bạn tin rằng bạn là kẻ ăn xin. Bạn
không thể đòi hỏi nó, bạn thậm chí không thể nào mơ tới việc đòi nó nếu bạn vẫn
nghĩ rằng mình là kẻ ăn xin. Cái ý tưởng rằng bạn là kẻ ăn xin, rằng bạn dốt
nát, rằng bạn là tội nhân, đã được không biết bao nhiêu nhà thuyết giáo thuyết
giảng qua nhiều thời đại đến mức nó đã trở thành thôi miên sâu sắc trong bạn.
Thôi miên này phải bị đập tan. Để đập vỡ nó tôi bắt đầu với: Tôi xin chào vị phật
bên trong bạn.
Với tôi, các bạn là chư phật. Tất cả mọi nỗ lực của bạn để
trở thành chứng ngộ đều lố bịch nếu bạn không chấp nhận sự kiện cơ bản này. Điều
này phải trở thành hiểu biết ngầm, rằng bạn là điều đó! Đây là bắt đầu đúng đắn,
nếu không bạn sẽ đi lạc lối. Đây là bắt đầu đúng đắn! Bắt đầu với viễn kiến này
đi, và đừng lo nghĩ rằng điều này có thể tạo ra một loại bản ngã nào đó - rằng
“Ta là phật.” Đừng lo nghĩ thế, bởi vì toàn bộ quá trình của Tâm Kinh sẽ làm
cho bạn rõ ràng rằng bản ngã là cái duy nhất không tồn tại - cái duy nhất không
tồn tại! Mọi thứ khác đều là thật.
Có những thầy nói thế giới này là ảo tưởng và linh hồn là tồn
tại - cái ‘tôi’ mới đúng còn mọi cái khác đều là ảo tưởng, ảo vọng maya. Phật
nói chính điều ngược lại: ông ấy nói duy nhất cái ‘tôi’ là không thật còn mọi
thứ khác đều là thật. Và tôi đồng ý với Phật nhiều hơn là với các quan điểm
khác. Sáng suốt của Phật là rất thấu đáo, thấu đáo nhất. Không ai đã nhìn thấu
đáo vào những cõi giới đó, vào chiều sâu và chiều cao của thực tại.
Nhưng bắt đầu với ý tưởng này, với bầu không khí này quanh bạn,
với viễn kiến này. Để cho điều đó được tuyên bố với từng tế bào thân thể bạn và
từng ý nghĩ của tâm trí bạn; để cho nó được tuyên bố cho từng ngõ ngách, từng
xó xỉnh của sự tồn tại của bạn, rằng “Ta là phật!” Và đừng lo nghĩ về cái
‘tôi’... chúng ta sẽ chăm lo tới nó.
Cái ‘tôi’ và phật tính không thể cùng tồn tại. Một khi phật
tính trở nên lộ ra thì cái ‘tôi’ biến mất, hệt như bóng tối biến mất khi bạn
đem ánh sáng vào.
Trước khi đi vào lời kinh này, cũng sẽ có ích nếu hiểu thêm
chút ít về khuôn khổ, chút ít cấu trúc.
Kinh sách phật giáo cổ đại nói về bẩy ngôi đền. Cũng giống
như người Sufi nói về bẩy thung lũng, và người Hindu nói về bẩy luân xa, phật tử
nói về bẩy ngôi đền.
Ngôi đền thứ nhất là thể chất, ngôi đền thứ hai là tâm thần,
ngôi đền thứ ba là tâm lí, ngôi đền thứ tư là tâm lítâm linh, ngôi đền thứ năm
là tâm linh, ngôi đền thứ sáu là tâm linh siêu việt, và ngôi đền thứ bẩy là và
ngôi đền tối thượng - là siêu việt.
Lời kinh này thuộc vào ngôi đền thứ bẩy. Đây là lời công bố
của người đã đi vào ngôi đền thứ bẩy, cái siêu việt, cái tuyệt đối. Đó là ý
nghĩa của từ tiếng Phạn, pragyaparamita - trí huệ của cõi bên kia, từ cõi bên
kia, trong cõi bên kia; trí huệ chỉ tới khi bạn đã siêu việt lên trên tất cả các
loại đồng nhất - thấp hơn hay cao hơn, thế giới này hay thế giới kia; khi bạn
đã siêu việt lên trên tất cả các loại đồng nhất, khi bạn không còn bị đồng nhất
với tất cả, khi chỉ có một ngọn lửa thuần khiết của nhận biết là còn lại mà
không có khói quanh nó. Đó là lí do tại sao phật tử tôn thờ cuốn sách nhỏ này,
cuốn sách rất, rất nhỏ này; và họ đã gọi nó là Tâm Kinh - chính tâm điểm của
tôn giáo, chính cốt lõi.
Ngôi đền thứ nhất, thể chất, có thể tương ứng theo bản đồ của
người Hindu với luân xa muladhar; ngôi đền thứ hai, tâm thần, tương ứng với
luân xa svadisthan; ngôi đền thứ ba, tâm lí, với manipura; ngôi đền thứ tư, tâm
lí tâm linh, với anahatta; thứ năm, tâm linh, với vishudha; thứ sáu, tâm linh
siêu việt, với agya; và thứ bẩy, cái siêu việt, với sahasrar. ‘Sahasrar’ có
nghĩa là hoa sen một nghìn cánh. Đó là biểu tượng cho việc nở hoa tối thượng:
không còn gì bị che dấu nữa, tất cả đã trở nên được lộ ra, biểu hiện. Hoa sen một
nghìn cánh đã mở ra, toàn bộ bầu trời tràn ngập hương thơm của nó, cái đẹp của
nó, phúc lành của nó.
Trong thế giới hiện đại một công trình lớn đã bắt đầu trong
việc tìm kiếm cốt lõi bên trong nhất của con người. Cũng sẽ tốt để hiểu các nỗ
lực hiện đại đưa chúng ta đi bao xa.
Pavlov, B. F. Skinner và các nhà hành vi học khác, cứ đi
lòng vòng quanh thể chất, muladhar. Họ nghĩ con người chỉ là thân thể. Họ dính
líu quá nhiều vào ngôi đền thứ nhất, họ dính líu quá nhiều với thể chất, họ
quên mất mọi thứ khác. những người này đang cố gắng giải thích con người chỉ
qua thể chất, vật chất. Thái độ này trở thành cản trở bởi vì họ không mở. Khi
mà ngay từ đầu bạn đã từ chối rằng chẳng có gì khác hơn thân thể, thế thì bạn
chối bỏ chính việc khám phá. Điều này trở thành định kiến. Người cộng sản, người
Mác xít, người hành vi chủ nghĩa, người vô thần - những người tin rằng con người
chỉ là thân thể - chính niềm tin của họ đóng chặt các cánh cửa đi tới những thực
tại cao hơn. Họ trở thành mù quáng. Và thể chất có đó, thể chất là rõ ràng nhất;
nó không cần bằng chứng. Thân thể vật lí có đó, bạn không cần phải chứng minh về
nó. Vì nó không cần phải chứng minh, nó trở thành thực tại duy nhất. Điều đó là
vô nghĩa. Thế thì con người mất đi mọi nhân phẩm. Nếu không có gì để trưởng
thành vào trong và đi lên, thì không thể nào chẳng còn gì hơn sắp xảy ra cho bạn
- bạn là thân thể: bạn ăn, rồi bạn ỉa, rồi bạn lại ăn và bạn làm tình và sinh
ra trẻ con, và điều này sẽ cứ tiếp diễn mãi, rồi một ngày bạn chết. Sự lặp lại
máy móc của những điều trần tục, tầm thường - làm sao có thể có bất kì ý nghĩa
nào, bất kì nghĩa nào, bất kì thơ ca nào? Làm sao có thể có bất kì điệu vũ nào?
Skinner đã viết một cuốn sách, Vượt ra ngoài tự do và nhân
phẩm. Nó đáng phải gọi là ở dưới tự do và nhân phẩm, không phải là vượt ra
ngoài. Nó là ở dưới, nó là quan điểm thấp nhất về con người, cái xấu nhất. Chẳng
có gì sai về thân thể cả, nhớ lấy. Tôi không chống lại thân thể, nó là ngôi đền
đẹp. Cái xấu xí đi vào khi bạn nghĩ đây là tất cả.
Con người có thể được quan niệm như chiếc thang có bẩy bậc,
và bạn đồng nhất với bậc thứ nhất. Thế thì bạn chẳng định đi đâu cả. Và chiếc
thang thì vẫn đó, chiếc thang vắt từ thế giới này sang thế giới khác; chiếc cầu
nối vật chất với Thượng đế. Bậc thứ nhất là hoàn toàn tốt nếu nó được dùng
trong mối quan hệ với toàn bộ chiếc thang. Nếu nó vận hành như bước đầu tiên
thì nó là đẹp cực kì: người ta nên biết ơn thân thể. Nhưng nếu bạn bắt đầu tôn
thờ bậc thứ nhất và bạn quên mất sáu bậc còn lại, bạn quên mất rằng toàn bộ chiếc
thang tồn tại và bạn trở thành khép kín, bị hạn chế vào bậc thứ nhất, thế thì
nó không còn là bậc thang chút nào nữa... bởi vì bậc thang chỉ là bậc thang khi
nó là một phần của chiếc thang. Nếu nó không còn là bậc thang, bạn bị mắc kẹt với
nó. Do đó, những người duy vật bao giờ cũng bị mắc kẹt, họ bao giờ cũng cảm thấy
điều gì đó đang bị lỡ, họ không cảm thấy họ đang đi đâu cả. Họ đi lòng vòng,
theo vòng tròn, và họ cứ đi đi lại lại mãi một điểm. Họ trở nên mệt mỏi và chán
chường. Họ bắt đầu suy nghĩ đến cách tự tử. Và toàn bộ nỗ lực của họ trong cuộc
sống là để tìm ra những cảm giác nào đó, để cho cái gì đó mới có thể xảy ra.
Nhưng cái ‘mới’ nào có thể xảy ra được? Tất cả những cái mà chúng ta cứ bận tâm
tới chẳng là gì ngoài đồ chơi để mà chơi thôi.
Nghĩ đến những lời này của Frank Sheed: “Linh hồn con người
đang kêu khóc về mục đích hay ý nghĩa. Còn nhà khoa học nói, ‘Điện thoại đây
này.’ Hay, ‘Trông đây! Ti vi!’ - hệt như người ta đang cố dỗ đứa trẻ đang khóc
đòi mẹ bằng việc đưa ra miếng kẹo và nhăn mặt nhăn mũi trước nó. Luồng phát
minh liên miên đã phục vụ cực kì tốt cho việc làm cho con người phải bận bịu,
ngăn con người không cho nhớ tới cái gây rắc rối cho mình.”
Tất cả những cái mà thế giới hiện đại đã cung cấp cho bạn
thì chẳng là gì ngoài kẹo đường, đồ chơi để chơi - còn bạn thì đang kêu khóc
đòi mẹ, bạn đang kêu khóc đòi tình yêu, bạn đang kêu khóc đòi tâm thức, và bạn
đang kêu khóc về ý nghĩa nào đó trong cuộc sống. Và họ nói, “Trông đây! Điện
thoại này. Trông đây! Ti vi này. Trông đây! Chúng tôi đã mang bao nhiêu thứ đẹp
tới cho bạn.” Còn bạn chơi quanh quẩn một chút ít; rồi bạn phát ngán; bạn phát
chán, và họ lại cứ tìm kiếm đồ chơi mới cho bạn chơi.
Trạng thái vấn đề này thật buồn cười. Nó ngớ ngẩn đến mức dường
như không thể nào quan niệm nổi làm sao chúng ta cứ sống mãi trong nó. Chúng ta
bị mắc tại bậc thang thứ nhất.
Nhớ rằng bạn đang trong thân thể, nhưng bạn không phải là
thân thể; để cho nhận thức đó liên tục ở trong bạn. Bạn sống trong thân thể và
thân thể là chỗ cư ngụ đẹp đẽ.
Nhớ lấy, vào mọi khoảnh khắc, tôi không hướng dẫn rằng bạn
nên trở thành kẻ chống đối thân thể, rằng bắt đầu chối bỏ thân thể như cái gọi
là những người duy tâm đã làm trong nhiều thời đại. Người duy vật nghĩ rằng
thân thể là tất cả những cái có đấy, và có những người còn đi sang cực đối lập,
và họ bắt đầu nói rằng thân thể là ảo tưởng; thân thể là không có! “Phá huỷ
thân thể để cho cái ảo tưởng đó bị phá huỷ, và bạn có thể trở thành cái thực một
cách thực sự.”
Cực đoan khác này là phản động. Người duy vật tạo ra phản động
của riêng mình với người duy tâm, nhưng họ là đối tác trong cùng một công việc;
họ không phải là những người khác nhau nhiều lắm. Thân thể là đẹp đẽ, thân thể
là thực, thân thể cần phải được sống, thân thể cần phải được yêu. Thân thể là
món quà vĩ đại của Thượng đế. Bạn đừng chống lại nó dù chỉ một khoảnh khắc, và
bạn cũng đừng nghĩ rằng bạn chỉ là nó dù chỉ một khoảnh khắc. Bạn còn lớn hơn
nhiều lắm. Dùng thân thể như bàn nhảy đi.
Bậc thứ hai là: tâm thần, svadisthan. Phân tâm của Freud vận
hành ở đây. Nó đi cao hơn một chút so với Skinner và Pavlov. Freud đi vào trong
những bí ẩn của tâm lí một chút ít nhiều hơn. Ông ấy không phải chỉ là nhà hành
vi chủ nghĩa, nhưng ông ấy chưa bao giờ vượt ra ngoài các giấc mơ. Ông ấy cứ
phân tích các giấc mơ.
Giấc mơ tồn tại như ảo tưởng trong bạn. Nó là điều ngụ ý, nó
là biểu tượng, nó mang thông điệp từ vô thức được để lộ cho ý thức. Nhưng chẳng
ích gì mà bị mắc vào nó. Dùng giấc mơ, nhưng đừng trở thành giấc mơ. Bạn không
phải là giấc mơ.
Và cũng chẳng cần làm nhặng sị lên về nó, như những người
theo Freud vẫn cứ làm. Toàn bộ nỗ lực của họ dường như là di chuyển vào trong
chiều hướng của thế giới mơ. Chú ý về nó, lấy quan điểm rất rất rõ ràng về nó,
hiểu thông điệp của nó, và thực sự không cần phải đi đến bất kì ai khác để phân
tích giấc mơ của bạn. Nếu bạn không thể phân tích được giấc mơ của mình, chẳng
ai khác có thể làm được, bởi vì giấc mơ của bạn là giấc mơ của bạn. Và giấc mơ
của bạn mang tính cá nhân đến mức chẳng ai khác có thể mơ theo cách bạn mơ.
Không ai đã từng mơ được theo cách bạn mơ, không ai sẽ mơ được theo cách bạn
mơ; không ai có thể giải thích nó cho bạn.
Việc diễn giải của người ấy sẽ là việc diễn giải của người ấy.
Duy nhất bạn mới có thể nhìn vào trong nó. Và trong thực tế thì cũng chẳng cần
phải phân tích giấc mơ: nhìn vào giấc mơ trong tính toàn bộ của nó, với sáng tỏ,
với tỉnh táo, và bạn sẽ thấy thông điệp. Nó lớn làm sao!
Chẳng cần phải đi tới nhà phân tâm trong ba, bốn, năm, bẩy
năm.
Một người, người vẫn mơ vào mọi đêm và ban ngày lại đến nhà
phân tâm để được phân tích, dần dần sẽ trở thành bị bao quanh bởi chất liệu mơ.
Giống như loại người thứ nhất trở thành quá bị ám ảnh với muladhara, thể chất,
thì loại người thứ hai trở nên quá bị ám ảnh với dục... bởi vì loại người thứ
hai - lĩnh vực của thực tại tâm lí - là dục. Loại người thứ hai bắt đầu diễn giải
mọi thứ dưới dạng dục. Bất kì cái gì bạn làm, cứ đến với người theo Freud và
ông ta sẽ qui nó về dục. Không có gì cao hơn tồn tại với ông ta. Ông ta sống
trong bùn, ông ta không tin vào hoa sen. Bạn đem hoa sen tới cho ông ta, ông ta
sẽ nhìn vào nó và qui nó về bùn. Ông ta sẽ nói, “Cái này chẳng là gì cả, cái
này chỉ là bùn bẩn thôi. Nó chẳng mọc ra từ bùn bẩn đó sao? Nếu nó mọc ra từ
bùn bẩn thì nó phải là bùn bẩn vậy.” Đưa mọi thứ về nguyên nhân của nó, và đó
là cái thực. Thế thì mọi bài thơ cũng đều bị qui về dục, mọi thứ đẹp đẽ cũng đều
bị qui về dục và truỵ lạc và kìm nén.
Michelangelo mà là nghệ sĩ vĩ đại sao? - thế thì nghệ thuật
của ông ấy phải bị qui về dâm dục nào đó. Và những người theo Freud đi tới cả
chuỗi dài những điều ngớ ngẩn. Họ nói: Michelangelo hay Goethe hay Byron, tất cả
các công trình nghệ thuật vĩ đại, cái đem lại niềm vui cho hàng triệu người, chẳng
là gì khác ngoài dục bị kìm nén - có thể Goethe đã là thủ dâm và bị ngăn cản.
Hàng triệu người bị ngăn cản khỏi thủ dâm, nhưng họ không trở
thành như Goethe. Đấy là điều ngớ ngẩn. Nhưng Freud là thầy của thế giới nhà vệ
sinh. Ông ấy sống ở đó, đó là ngôi đền của ông ta. Nghệ thuật trở thành bệnh hoạn,
thi ca trở thành bệnh hoạn, mọi thứ đều trở thành truỵ lạc. Nếu phân tích của
người theo Freud mà thành công thì sẽ không có Kalidas, không có Shakespeare,
không có Michelangelo, không có Mozart, không có Wagner, bởi vì mọi người sẽ
bình thường.
Những người này là bất thường. Những người này bị bệnh tâm
thần, theo Freud. Cái vĩ đại nhất bị đưa về cái thấp kém nhất. Phật là ốm yếu,
theo Freud, bởi vì bất kì điều gì ông ấy nói, chúng cũng chẳng là gì ngoài dục
bị kìm nén.
Cách tiếp cận này đưa cái vĩ đại của con người về cái xấu
xí. Nhận biết về điều đó đi. Phật không ốm yếu; trong thực tế, Freud ốm yếu. Im
lặng của Phật, vui vẻ của Phật, mở hội của Phật - đấy không phải là ốm yếu, đấy
là việc nở hoa hoàn toàn của trạng thái hạnh phúc. Nhưng với Freud người bình
thường là người chưa bao giờ hát lên bài ca, người chưa từng nhảy múa, người
chưa từng mở hội, chưa từng cầu nguyện, chưa từng thiền, chưa từng làm bất kì
cái gì sáng tạo, bình thường là: đến cơ quan, về nhà, ăn, uống, ngủ và chết;
không để lại đằng sau dấu vết gì của sáng tạo của mình; không để lại dù chỉ một
dấu hiệu ở bất kì đâu. Người bình thường này dường như là rất tầm thường, đần độn
và chết. Có hoài nghi về Freud bởi vì bản thân ông ta không thể sáng tạo - ông
ta là một người không sáng tạo - ông ta lên án bản thân tính sáng tạo là bệnh
hoạn. Có mọi khả năng ông ta là một người tầm thường. Chính cái tầm thường của
ông ta làm cho tất cả những người vĩ đại trên thế giới cảm thấy chướng.
Tâm trí tầm thường cố gắng thu nhỏ tất cả những cái vĩ đại.
Tâm trí tầm thường không thể nào chấp nhận được rằng có thể có bất kì người nào
vĩ đại hơn mình. Điều đó làm tổn thương. Đấy là báo thù của điều tầm thường -
toàn bộ việc phân tâm này và cách diễn giải của nó về cuộc sống con người. Nhận
biết về nó đi. Nó có tốt hơn loại thứ nhất, đúng, tiến lên trước hơn loại thứ
nhất một chút, nhưng người ta còn phải đi tiếp, tiếp nữa, vượt ra ngoài và ra
ngoài.
Bậc thứ ba là tâm lí. Adler sống trong thế giới của tâm lí,
của ý chí quyền lực; ít nhất có một cái gì đó - rất vị kỉ, nhưng ít nhất cũng
có một cái gì đó; một chút ít cởi mở hơn Freud. Nhưng vấn đề là, cũng giống như
Freud qui mọi thứ về dục, Adler cứ qui mọi thứ về phức cảm tự ti. Người ta cố gắng
trở thành vĩ đại bởi vì họ cảm thấy thấp kém. Một người cố gắng trở thành chứng
ngộ là người cảm thấy thấp kém, và một người cố gắng trở thành chứng ngộ là người
đang trên cuộc hành trình quyền lực. Điều này hoàn toàn sai lầm, bởi vì chúng
ta đã thấy những người đó - một Phật, một Christ, một Krishna - người đã buông
xuôi hoàn toàn đến mức hành trình của họ không thể nào được gọi là hành trình
quyền lực. Và khi Phật nở hoa, ông ấy cũng chẳng có ý tưởng nào về sự cao thượng,
không một chút nào. Ông ấy cúi mình xuống dưới toàn bộ sự tồn tại. Ông ấy chẳng
có ý tưởng nào về việc thần thánh hơn người, không một chút nào. Mọi thứ đều là
thần thánh, thậm chí một hạt bụi cũng là thiêng liêng. Không, ông ấy không nghĩ
mình cao thượng, và ông ấy không cố gắng để trở thành cao thượng. Ông ấy không
cảm thấy thấp kém chút nào. Ông ấy được sinh ra là vua; không có vấn đề về thấp
kém. Ông ấy ở trên chóp đỉnh ngay từ đầu, không có vấn đề về thấp kém. Ông ấy
là người giầu có nhất trong nước, người có quyền lực nhất trong nước: không còn
quyền lực nào cao hơn cần phải đạt tới, không còn giầu có nào lớn hơn cần đạt tới.
Ông ấy là một trong những người đẹp nhất đã được sinh ra
trên trái đất này, ông ấy có một trong những phụ nữ đẹp nhất là người yêu. Tất
cả đều có sẵn cho ông ấy. Nhưng Alder sẽ cứ đi tìm một cái thấp kém nào đó bởi
vì ông ta không thể nào tin được rằng một người lại có thể có bất kì mục tiêu
nào khác hơn bản ngã. Điều này là tốt hơn... tốt hơn Freud, cao hơn chút ít. Bản
ngã có cao hơn dục chút ít; không cao hơn lắm, nhưng có cao hơn chút ít.
Bậc thứ tư là tâm lí-tâm linh, anahatta, trung tâm trái tim.
Jung, Assagioli và những người khác thâm nhập vào cõi này. Họ đi cao hơn
Pavlov, Freud và Alder, họ mở ra nhiều khả năng hơn. Họ chấp nhận thế giới của
cái bất hợp lí, vô ý thức: họ không giới hạn mình vào lẽ phải. Họ là người hợp
lí hơn - họ chấp nhận cả cái ‘không có lí’ nữa. Cái vô lí không bị chối bỏ mà
được chấp nhận. Đây là nơi tâm lí học hiện đại dừng lại - tại bậc thang thứ tư.
Và bậc thang thứ tư cũng mới là ở giữa của toàn bộ chiếc thang: ba bậc bên này
và ba bậc bên kia.
Tâm lí học hiện đại chưa phải là khoa học hoàn chỉnh. Nó
treo lơ lửng ở giữa. Nó rất dễ lung lay, không chắc chắn về điều gì cả. Nó phần
nhiều giả thuyết hơn là thực nghiệm. Nó vẫn còn đang chật vật để tồn tại. Bậc
thứ năm là tâm linh: Mô ha mét giáo, Hin du giáo, Ki tô giáo - các tôn giáo có
tổ chức còn bị mắc kẹt với bậc thứ năm.Họ không vượt ra ngoài tâm linh. Tất cả
các tôn giáo có tổ chức, nhà thờ, vẫn còn ở đó.
Bậc thứ sáu là tâm linh siêu việt - yoga và các phương pháp
khác. Trên khắp thế giới, suốt nhiều thời đại, nhiều phương pháp đã được phát
triển, những điều không giống như tổ chức nhà thờ, không học thuyết mà nhiều thực
nghiệm hơn. Bạn phải làm điều gì đó với thân thể và tâm trí mình; bạn phải tạo
ra hài hoà nào đó bên trong mình để cho bạn có thể cưỡi lên hài hoà đó, bạn có
thể cưỡi lên đám mây hài hoà đó và đi xa khỏi thực tại bình thường của mình.
Yoga có thể bao quát tất cả điều đó; đó là bậc thứ sáu.
Và bậc thứ bẩy là siêu việt: Mật tông, Đạo, Thiền. Quan điểm
của Phật là ở bậc thứ bẩy - pragyaparamita. Nó có nghĩa là trí huệ siêu việt
lên, trí huệ tới với bạn chỉ khi tất cả các thể đã được đi qua và bạn đã trở
thành chỉ một nhận biết thuần khiết, chỉ một nhân chứng, một chủ thể thuần khiết.
Chừng nào con người còn chưa đạt tới siêu việt, con người sẽ
còn phải được cho đồ chơi, kẹo đường. Con người sẽ phải được cung cấp với những
ý nghĩa sai lầm. Mới hôm nọ tôi đi ngang qua một tấm biển quảng cáo xe hơi Mĩ.
Nó nói - với một chiếc xe hơi đẹp - trên đỉnh của chiếc xe nó nói: Cái gì đó để
tin vào.
Con người chưa bao giờ tụt xuống thấp thế. Cái gì đó để tin
vào! Bạn tin vào chiếc xe ư? Đúng đấy, người ta tin vào nhà mình, người ta tin
vào xe hơi của mình, người ta tin vào số dư ngân hàng của mình. Nếu bạn nhìn
quanh bạn sẽ ngạc nhiên - Thượng đế đã biến mất, nhưng niềm tin thì không biến
mất. Thượng đế không còn ở đó nữa: bây giờ có xe Cadillac hay Lincoln! Thượng đế
đã biến mất nhưng con người đã tạo ra thượng đế mới - Stalin, Mao. Thượng đế đã
biến mất và con người đã tạo ra các thần tượng mới - các ngôi sao điện ảnh.
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử tâm thức con người mà con
người đã tụt xuống thấp như thế. Và thậm chí nếu đôi khi bạn nhớ tới Thượng đế,
đấy cũng chỉ là một từ trống rỗng. Có thể khi bạn đau ốm, có thể khi bạn thất vọng,
thế thì bạn dùng Thượng đế - dường như Thượng đế là thuốc aspirin. Đó là điều
cái gọi là các tôn giáo đã làm cho các bạn tin tưởng: họ nói, “Hãy tưởng nhớ
Thượng đế ba lần một ngày và bạn sẽ không cảm thấy đau gì!” Cho nên bất kì khi
nào bạn bị đau, bạn nhớ tới Thượng đế. Thượng đế không phải là thuốc aspirin,
Thượng đế không phải là thuốc giảm đau.
Một vài người nhớ tới Thượng đế theo thói quen, một số người
khác nhớ tới Thượng đế theo chuyên nghiệp. Tu sĩ - ông ta nhớ tới Thượng đế
theo nghề chuyên nghiệp. Ông ta chẳng liên can gì tới Thượng đế cả, ông ta được
trả tiền cho điều đó. Ông ta đã trở thành kẻ thiện nghệ. Một vài người nhớ theo
thói quen, một vài người theo chuyên nghiệp, nhưng dường như chẳng ai nhớ tới
Thượng đế trong tình yêu sâu sắc cả. Một vài người cầu tới tên ngài khi họ khổ;
chẳng ai nhớ tới ngài khi họ đang sung sướng, mở hội. Và đó mới là khoảnh khắc
đúng để mà nhớ - bởi vì chỉ khi bạn vui vẻ, vui vẻ vô biên, bạn mới gần Thượng
đế. Khi bạn trong khổ, bạn ở xa xôi, khi bạn trong khổ, bạn đóng kín. Khi bạn hạnh
phúc, bạn cởi mở, tuôn chảy; bạn có thể cầm tay Thượng đế.
Cho nên hoặc bạn nhớ theo thói quen, bởi vì bạn đã được dạy
từ ngay thời trẻ thơ - nó đã trở thành một loại thói quen, giống như hút thuốc.
Nếu bạn hút thuốc, bạn không thích nhiều lắm; nếu bạn không hút, bạn cảm thấy bạn
thiêu thiếu cái gì đó. Nếu bạn nhớ tới Thượng đế mỗi sáng, mỗi chiều, chẳng đạt
được cái gì cả, bởi vì việc nhớ không phải là của trái tim - chỉ lời miệng, tâm
trí, máy móc. Nhưng nếu bạn không nhớ lấy, bạn bắt đầu cảm thấy cái gì đó thiêu
thiếu. Nó đã trở thành lễ nghi. Nhận biết về việc làm Thượng đế thành lễ nghi,
và nhận biết về việc trở thành chuyên nghiệp về nó đi.
Tôi đã từng nghe một câu chuyện rất nổi tiếng: Câu chuyện về
một nhà yoga vĩ đại, rất nổi tiếng, người được nhà vua hứa rằng nếu ông ta có
thể nằm trong nấm mồ sâu và ở dưới đất trong một năm, nhà vua sẽ cho ông ta con
ngựa hay nhất của vương quốc xem như phần thưởng. Nhà vua biết rằng nhà yoga
này có trái tim mềm yếu với ngựa, ông ta là người yêu ngựa vô cùng.
Nhà yoga ưng thuận; ông ấy bị chôn sống trong một năm. Nhưng
trong năm đó vương quốc đã bị đánh bại và chẳng còn ai nhớ tới việc đào nhà
yoga lên. Mười năm sau đó một ai đó mới nhớ ra: “Điều gì xảy ra cho nhà yoga
này nhỉ?” Nhà vua bảo vài người đi tìm lại. Nhà yoga được đào lên; ông ta vẫn
còn sống trong cơn mê sâu. Câu mật chú đã được thoả thuận trước đây được thì
thào vào tai ông ta và ông ta ngồi dậy, và việc đầu tiên ông ta nói là “Ngựa của
tôi đâu?”
Sau mười năm vẫn còn im lặng dưới đất... nhưng tâm trí chẳng
thay đổi chút nào - “Ngựa của tôi đâu?” Con người này có thực trong cơn mê,
trong samadhi không? Ông ấy có nghĩ về Thượng đế không? Ông ấy phải đã nghĩ
liên tục về ngựa. Nhưng ông ấy thành thạo, tài giỏi chuyên nghiệp. Ông ấy phải
đã học được kĩ thuật dừng thở và cách đi vào một loại cái chết - nhưng đấy là
kĩ thuật.
Mười năm trong im lặng sâu sắc thế, và tâm trí chẳng thay đổi
một chút xíu! Đích xác hệt như mười năm này chưa hề trôi qua. Nếu bạn nhớ tới
Thượng đế một cách kĩ thuật, nếu bạn nhớ tới Thượng đế một cách chuyên nghiệp,
nhớ theo thói quen, một cách máy móc, thế thì chẳng cái gì sắp xảy ra cả. Tất cả
đều có thể, nhưng tất cả các khả năng đều đi qua trái tim. Do đó tên của bài
kinh này: Tâm Kinh.
Chừng nào bạn còn chưa làm điều gì đó với tình yêu lớn, với
tham dự lớn, với cam kết lớn, với chân thành, với chân thực, với toàn bộ con
người bạn, thì chẳng cái gì sắp xảy ra cả.
Với một số người tôn giáo giống như chân giả: nó chẳng có
hơi ấm lẫn cuộc sống. Và mặc dầu nó giúp cho họ loạng choạng bước đi, nó vẫn chẳng
bao giờ trở thành một phần của họ; nó phải được buộc lại hàng ngày. Nhớ lấy, điều
này đã xảy ra cho hàng triệu người trên trái đất, điều này cũng có thể xảy ra
cho bạn nữa. Đừng tạo ra chân giả, để chân thật trưởng thành trong bạn. Chỉ thế
thì cuộc sống của bạn mới ấm áp, chỉ thế thì cuộc sống của bạn mới có vui vẻ -
không phải là nụ cười giả tạo trên môi, không phải là hạnh phúc giả mà bạn vờ
có, không phải là mặt nạ, mà trong thực tế. Thường thì bạn cứ mang những thứ
này: ai đó mang nụ cười đẹp, ai đó mang khuôn mặt từ bi, ai đó mang một nhân
cách rất rất đáng yêu - nhưng những điều này giống như quần áo bạn mặc lên người
mình. Sâu bên trong bạn vẫn còn như cũ.
Những lời kinh này có thể trở thành cuộc cách mạng. Điều thứ
nhất, cái bắt đầu, bao giờ cũng là câu hỏi, “Tôi là ai?” Và người ta cứ phải hỏi
mãi. Khi lần đầu tiên bạn hỏi, “Tôi là ai?” thì muladhar sẽ trả lời, “Bạn là
thân thể! Câu hỏi vô nghĩa! Không cần phải hỏi, bạn đã biết nó rồi.” Thế rồi bậc
thứ hai sẽ nói, “Bạn là dục.” Rồi bậc thứ ba sẽ nói, “Bạn là con đường quyền lực,
là bản ngã” - và cứ thế mãi.
Nhớ lấy, bạn phải dừng lại chỉ khi không câu trả lời nào tới,
không có chuyện trước điều đó. Nếu câu trả lời nào đó vẫn còn tới, "Bạn là
thế này, bạn là thế nọ," thế thì biết rằng một trung tâm nào đó đang đưa
ra cho bạn câu trả lời. Khi tất cả sáu trung tâm đã được đi qua và tất cả các
câu trả lời của chúng đều bị cắt bỏ, bạn vẫn cứ hỏi, “Tôi là ai?” và không có
câu trả lời đến từ bất kì đâu, đấy là im lặng hoàn toàn. Câu hỏi của bạn vang vọng
trong bản thân mình: “Tôi là ai?” và có im lặng, không câu trả lời nào nảy sinh
từ bất kì đâu, từ bất kì xó xỉnh nào. Bạn hoàn toàn hiện diện, hoàn toàn im lặng,
và thậm chí không có đến một rung động. “Tôi là ai?” - và chỉ có im lặng. Thế
thì phép mầu xảy ra: bạn thậm chí không thể nào hình thành được câu hỏi. Câu trả
lời đã trở thành ngớ ngẩn; thế thì cuối cùng câu hỏi cũng trở thành ngớ ngẩn. Đầu
tiên câu trả lời biến mất, thế rồi câu hỏi cũng biến theo - vì chúng chỉ có thể
sống cùng nhau. Chúng là hai mặt của một đồng tiền - nếu mặt này ra đi, mặt kia
không thể còn lại được. Câu trả lời biến trước rồi câu hỏi biến theo. Và với việc
biến mất của câu hỏi và câu trả lời, bạn nhận ra: đó là siêu việt. Bạn biết, vậy
mà bạn không thể nói; bạn biết, vậy mà bạn không thể nói rõ ràng về nó. Bạn biết
từ chính bản thể con người mình bạn là ai, nhưng điều ấy không thể nào nói ra lời
được. Nó là tri thức cuộc sống; nó không phải là kinh sách, nó không phải là
vay mượn, nó không phải là từ người khác. Nó nảy sinh trong bạn.
Và với việc nảy sinh này, bạn là vị phật. Và thế thì bạn bắt
đầu cười to vì bạn nhận ra rằng bạn đã là vị phật từ ngay ban đầu; bạn chỉ chưa
bao giờ nhìn sâu thế. Bạn đã chạy lòng vòng loanh quanh bản thể mình, bạn chưa
bao giờ về nhà.
Triết gia, Arthur Schopenhauer, đang bước đi đơn độc trên phố.
Chìm đắm trong suy nghĩ, ngẫu nhiên ông ấy đâm sầm vào một người đi bộ khác. Tức
mình bởi cú húc và cái hờ hững rõ ràng của triết gia, người đi bộ này hét lên,
"Này! Ông nghĩ ông là ai vậy?" Vẫn đắm chìm trong suy nghĩ triết gia
nói, “Tôi là ai ư? Tôi muốn biết điều đó làm sao.”
Chẳng ai biết cả.
Biết điều này - rằng tôi không biết tôi là ai - cuộc hành
trình bắt đầu.
Lời kinh thứ nhất:
Tôn kính sự hoàn hảo của trí huệ
cái đáng yêu, cái linh thiêng!
Đây là lời cầu khẩn. Tất cả kinh sách Ấn Độ đều bắt đầu bằng
lời cầu khẩn bởi lí do nào đó. Điều này không phải như vậy ở các nước khác và
trong các ngôn ngữ khác; điều này không phải như vậy ở Hi lạp. Cách hiểu của Ấn
Độ là thế này: rằng chúng ta là cây tre hổng, duy nhất cái vô hạn chảy qua
chúng ta. Cái vô hạn phải được cầu khẩn tới; chúng ta chỉ trở thành công cụ cho
nó.
Chúng ta cầu khẩn nó, chúng ta gọi nó tới để chảy qua chúng
ta. Đó là lí do tại sao không người nào biết ai đã viết ra Tâm Kinh này. Nó đã
không được kí tên bởi vì người viết ra nó đã không tin rằng mình là người viết
ra nó. Người ấy chỉ là công cụ. Người ấy chỉ giống như người viết tốc kí; việc
đọc là từ bên ngoài xa. Điều đó đã được đọc cho người ấy, người ấy đã viết lại
trung thành điều đó, nhưng người ấy không phải là tác giả của nó - nhiều nhất
người ấy chỉ là người viết ra.
Tôn kính sự hoàn hảo của trí huệ
cái đáng yêu, cái linh thiêng!
Đây là lời cầu khẩn, một vài từ, nhưng mọi từ đều rất, rất
hàm chứa ý nghĩa.
Tôn kính sự hoàn hảo của trí huệ...
‘Sự hoàn hảo của trí huệ’ là việc dịch cho chữ
pragyaparamite. Pragya có nghĩa là trí huệ. Nhớ lấy, nó không có nghĩa là tri
thức. Tri thức là cái tới qua tâm trí, tri thức là cái tới từ bên ngoài. Tri thức
chưa bao giờ là nguyên thuỷ cả! Nó không thể nào là nguyên thuỷ được, bởi chính
bản chất của nó; nó là đồ vay mượn. Trí huệ là linh ảnh nguyên thuỷ của bạn: nó
không tới từ bên ngoài, nó trưởng thành trong bạn. Nó không giống đoá hoa nhựa
nhân tạo bạn ra chợ và mua về. Nó là hoa hồng thật mọc trên cây, từ cây. Nó là
bài ca của cây. Nó tới từ cốt lõi bên trong nhất của cây; từ chiều sâu của cây
mà nó mọc ra. Ngày này nó còn chưa được diễn đạt, ngày khác nó được diễn đạt
ra; ngày này nó còn chưa biểu lộ, ngày khác nó được biểu lộ ra.
Pragya có nghĩa là trí huệ, nhưng trong tiếng Anh, ngay cả
trí huệ cũng mang ý nghĩa khác. Trong tiếng Anh, tri thức có nghĩa là không có
kinh nghiệm: bạn tới đại học, bạn thu thập tri thức. Trí huệ có nghĩa là bạn đi
vào cuộc sống và bạn thu thập kinh nghiệm. Cho nên một thanh niên có thể có tri
thức những không bao giờ có trí huệ, bởi vì trí huệ cần thời gian. Một thanh
niên có thể có bằng cấp: người đó có thể là tiến sĩ khoa học hay văn chương -
điều đó chẳng khó khăn gì - nhưng chỉ người già mới có thể có trí tuệ. Trí tuệ
có nghĩa là tri thức được thu thập qua kinh nghiệm riêng của người ta, nhưng nó
vẫn là từ bên ngoài.
Pragya không phải là tri thức mà cũng chẳng phải là trí tuệ
như người ta vẫn thường hiểu chúng. Nó là việc nở hoa bên trong - không phải
qua kinh nghiệm, không phải qua người khác, không phải qua cuộc sống và đọ sức
với cuộc sống, không, nhưng chỉ bằng việc đi vào bên trong, trong im lặng hoàn
toàn, và cho phép cái vẫn ẩn kín ở đó bùng nổ ra. Bạn đang mang trí huệ như hạt
mầm bên trong mình; nó chỉ cần mảnh đất tốt để có thể nẩy mầm.
Trí huệ bao giờ cũng là nguyên thuỷ. Nó bao giờ cũng là của
bạn, và duy nhất là của bạn. Nhưng nhớ lấy, khi tôi nói ‘của bạn’, tôi không định
nói rằng có bất kì bản ngã nào dính líu vào trong nó. Nó là của bạn theo nghĩa
nó đến từ tự tính của bạn, nhưng nó không công bố về bản ngã - bởi vì lần nữa bản
ngã lại là một phần của tâm trí, không phải của im lặng nội tâm của bạn.
Paramita có nghĩa là vượt ra ngoài, từ bên ngoài, bên ngoài thời gian và không
gian; khi bạn chuyển tới trạng thái nơi thời gian biến mất, khi bạn chuyển tới
nơi nội tâm mà không gian biến mất, khi bạn không biết bạn ở đâu và khi nào,
khi nào cả hai tham chiếu này đã biến mất. Thời gian là ở bên ngoài bạn, không
gian cũng ở bên ngoài bạn. Có một điểm giao bên trong bạn nơi thời gian biến mất.
Một ai đó đã hỏi Jesus, “Xin kể cho chúng tôi đôi điều về
vương quốc của Thượng đế. Có gì đặc biệt ở đó?” Tương truyền Jesus đã nói, “Thời
gian không còn nữa.” Có vĩnh hằng, khoảnh khắc vô thời gian. Đó là ra ngoài -
nơi vô không gian và khoảnh khắc vô thời gian. Bạn không còn bị giới hạn nữa,
cho nên bạn không thể nói bạn ở đâu.
Bây giờ các bạn nhìn vào tôi: tôi không thể nói tôi đang ở
đây, bởi vì tôi đang ở kia nữa. Và tôi không thể nói tôi đang ở Ấn Độ, bởi vì
tôi đang ở Trung quốc nữa. Và tôi cũng không thể nói rằng tôi đang ở hành tinh
này, bởi vì tôi không ở hành tinh này. Khi bản ngã biến mất bạn đơn giản là một
với cái toàn thể. Bạn ở mọi nơi và không nơi nào. Bạn không tồn tại như một thực
thể tách biệt, bạn tan biến.
Nhìn xem! Vào buổi sáng, trên chiếc lá đẹp, có một hạt sương
lung linh trong ánh mặt trời, đẹp cực kì. Và thế rồi nó bắt đầu tuột đi, và nó
tuột vào trong đại dương. Nó đã có đó trên chiếc lá: có thời gian và không
gian, nó đã có định nghĩa, tính cách của riêng nó. Bây giờ một khi nó rơi vào
trong đại dương, bạn không thể nào thấy nó ở đâu nữa - không phải bởi vì nó đã
trở nên không tồn tại, không. Bây giờ nó ở mọi nơi; đó là lí do tại sao bạn
không thể nào tìm thấy nó ở bất kì đâu. Bạn không thể định vị được nó bởi vì
toàn bộ đại dương đã trở thành vị trí của nó. Bây giờ nó không tồn tại tách biệt.
Khi bạn không tồn tại trong tách biệt với cái toàn thể, thì
nảy sinh pragyaparamita, trí huệ cái hoàn hảo, trí huệ cái từ bên ngoài.
Tôn kính sự hoàn hảo của trí huệ
cái đáng yêu, cái linh thiêng!
Lời cầu khẩn hay làm sao... Nó nói: Tôn kính của tôi là với
trí huệ, cái tới khi bạn vượt ra ngoài. Và nó là đáng yêu, và nó là linh thiêng
- linh thiêng bởi vì bạn đã trở thành một với cái toàn thể; đáng yêu bởi vì bản
ngã đã tạo ra tất cả các loại xấu xí trong cuộc sống bạn không còn nữa.
Satyam, shivam, sunderam: nó là đúng, nó là thiện, nó là đẹp.
Đây là ba phẩm chất.
Tôn kính sự hoàn hảo của trí huệ - chân lí...
Đó là điều chân lí là gì: hoàn hảo của trí huệ, cái đáng
yêu, cái đẹp đẽ, cái linh thiêng, cái thiện. Tại sao nó được gọi là linh
thiêng? - bởi vì chư phật được sinh ra từ đó. Nó là bụng mẹ của chư phật. Bạn
trở thành vị phật vào khoảnh khắc bạn cùng chia sẻ hoàn hảo này của trí huệ. Bạn
trở thành vị phật khi giọt sương tan biến trong đại dương, mất đi phân cách,
không còn tranh đấu chống lại cái toàn thể nữa, đã buông xuôi, cùng đi với cái
toàn thể, không còn chống lại nó nữa. Do đó nhấn mạnh của tôi là đi cùng với tự
nhiên; đừng bao giờ chống lại nó. Đừng bao giờ cố gắng vượt qua nó, đừng bao giờ
cố gắng chinh phục nó, đừng bao giờ cố gắng đánh bại nó. Nếu bạn cố gắng đánh bại
nó, bạn mang định mệnh thất bại rồi, bởi vì bộ phận không thể đánh bại cái toàn
thể - và đó là điều mà mọi người đều cố gắng làm. Do đó có nhiều thất vọng đến
thế, bởi vì mọi người đều dường như đều bị thất bại. Mọi người đều cố gắng
chinh phục cái toàn thể, cố gắng đẩy lùi dòng sông. Một cách tự nhiên, một ngày
nào đó, bạn trở nên mệt mỏi, kiệt sức - bạn có nguồn năng lượng rất hạn hẹp;
dòng sông thì lại mênh mông. Rồi một ngày nó sẽ đem bạn đi, nhưng bạn chịu thua
trong thất vọng.
Nếu bạn có thể chịu thua trong vui vẻ, điều đó trở thành
buông xuôi. Thế thì nó không còn là thất bại nữa, nó là thắng lợi. Bạn thắng chỉ
khi cùng với Thượng đế, đừng bao giờ chống lại Thượng đế. Và nhớ lấy, Thượng đế
không định đánh bại bạn đâu. Thất bại của bạn là do tự bạn sinh ra đấy thôi. Bạn
bị thất bại bởi vì bạn tranh đấu. Nếu bạn muốn bị thất bại, cứ tranh đấu đi; nếu
bạn muốn chiến thắng, buông xuôi đi. Đây là nghịch lí: rằng những người đã sẵn
sàng chịu thua trở thành người thắng. Người thua là người thắng duy nhất trong
trò chơi này. Bạn cố để thắng và thất bại của bạn là tuyệt đối chắc chắn - chỉ
còn là vấn đề thời gian, vào lúc nào, nhưng nó là chắc chắn, nó sắp xảy ra.
Nó là linh thiêng bởi vì bạn là một với cái toàn thể. Bạn thổn
thức với nó, bạn nhảy múa với nó, bạn hát với nó. Bạn giống như chiếc lá trong
gió: lá đơn giản nhảy múa với gió, nó không có ý chí của riêng mình. Cái vô ý
chí này là cái tôi gọi là sannyas, cái mà lời kinh này này gọi là linh thiêng.
Từ tiếng Phạn cho linh thiêng là bhagavati. Từ đó thậm chí
còn quan trọng để hiểu hơn là từ thiêng liêng, bởi vì từ thiêng liêng mang
nghĩa Ki tô giáo nào đó cho nó. Bhagavati...
Bhagavati là dạng giống cái của bhagavan. Đầu tiên, lời kinh
này không dùng từ bhagavan, nó dùng bhagavati, giống cái - bởi vì cội nguồn của
tất cả là giống cái, không phải giống đực. Nó là âm, không phải dương, nó là mẹ,
không phải bố.
Khái niệm Ki tô giáo về Thượng đế như người bố không hay cho
lắm. Nó không gì khác hơn là bản ngã đàn ông. Bản ngã đàn ông không thể nào
nghĩ rằng Thượng đế lại có thể là ‘bà’; bản ngã đàn ông muốn Thượng đế là
‘ông’. Và bạn thấy toàn bộ ba ngôi Ki tô giáo: tất cả ba người đều là đàn ông,
đàn bà không được tính ở đây - Thượng đế là cha, Christ là con và Thánh thần
linh thiêng. Đấy là một câu lạc bộ toàn đàn ông. Và nhớ cho kĩ rằng giống cái mới
là nền tảng trong cuộc sống hơn là đàn ông, bởi vì chỉ đàn bà mới có bụng mẹ,
chỉ đàn bà mới có thể cho sinh thành cuộc sống, cuộc sống mới. Nó tới qua giống
cái.
Tại sao nó tới qua giống cái? Điều đấy không phải là ngẫu
nhiên đâu. Nó tới qua giống cái bởi vì chỉ giống cái mới có thể cho phép nó tới
- bởi vì giống cái là tiếp nhận. Giống đực là hung hăng; giống cái có thể tiếp
nhận, hấp thu, có thể trở thành lối đi qua.
Lời kinh này nói tới bhagavati, không phải bhagavan. Nó có tầm
quan trọng mênh mông. Trí huệ hoàn hảo mà tất cả chư phật đều tới từ đó là yếu
tố giống cái, người mẹ. Bụng mẹ phải là người mẹ. Một khi bạn nghĩ về Thượng đế
như người bố, bạn dường như không hiểu bạn đang làm gì. Bố là thể chế phi tự
nhiên. Tính chất bố không tồn tại trong tự nhiên. Tính chất bố chỉ tồn tại mới
vài nghìn năm nay; nó là thể chế con người. Mẹ tồn tại ở mọi nơi, mẹ là tự
nhiên.
Bố có thể đi vào trong thế giới này bởi vì quyền sở hữu
riêng tư. Bố là một phần của nền kinh tế, không phải của tự nhiên. Và một khi
quyền sở hữu riêng tư biến mất - nếu nó biến mất - thì người bố cũng biến luôn.
Người mẹ bao giờ và bao giờ cũng sẽ còn lại. Chúng ta không thể quan niệm được
về một thế giới mà không có mẹ, chúng ta có thể quan niệm về một thế giới không
có bố rất dễ dàng. Và chính ý tưởng này là hung hăng. Bạn chưa từng quan sát
sao? Chỉ người Đức mới gọi nước mình là ‘đất cha’, mọi nước khác đều gọi là ‘đất
mẹ’.
Đây là những người nguy hiểm. ‘Đất mẹ’ thì được. Bằng việc gọi
đất nước mình là ‘đất cha’ thì bạn đang bắt đầu một điều gì đó nguy hiểm, bạn
đang đặt một cái gì đó nguy hiển dưới chân.. Chẳng chóng thì chầy hung hăng sẽ
tới, chiến tranh sẽ tới. Hạt mầm có đó.
Tất cả những tôn giáo đã nghĩ về Thượng đế như người bố đều
là tôn giáo hung hăng. Ki tô giáo là hung hăng, đạo hồi cũng vậy. Và bạn biết rất
rõ rằng Thượng đế của người Do Thái là Thượng đế rất nóng giận và kiêu ngạo. Và
Thượng đế của người Do Thái tuyên bố: Nếu ngươi không theo ta, tức là ngươi chống
ta, và ta sẽ tiêu diệt ngươi. Còn ta là một Thượng đế rất đố kị; chỉ được tôn
thờ ta! Những dân tộc đã nghĩ về Thượng đế như người mẹ đều là dân tộc không bạo
lực.
Phật tử chưa bao giờ tiến hành cuộc chiến tranh nhân danh
tôn giáo. Họ chưa bao giờ cố gắng cải đạo dù chỉ một người bằng bất kì bạo lực
nào, bởi bất kì bó buộc thuộc bất kì loại nào. Người Mô ha mét giáo đã cố gắng
cải đạo mọi người bằng lưỡi gươm, chống lại ý chí của họ, chống lại ý thức của
họ, chống lại tâm thức của họ. Người Ki tô giáo đã cố gắng thao túng mọi người
để trở thành người Ki tô giáo theo đủ mọi cách - đôi khi bằng lưỡi gươm, đôi
khi qua bánh mì, đôi khi qua cách thuyết phục khác. Phật giáo là tôn giáo duy
nhất đã không cải đạo dù chỉ một người ngược lại ý thức của người đó.
Duy nhất phật giáo là tôn giáo không bạo lực, bởi vì khái niệm
về thực tại tối thượng là giống cái.
Tôn kính sự hoàn hảo của trí huệ
cái đáng yêu, cái linh thiêng!
Và nhớ lấy, chân lí là đẹp đẽ. Chân lí là đẹp bởi vì chân lí
là phúc lành. Chân lí không thể nào xấu được, và cái xấu xí không thể nào đúng
được; cái xấu xí là ảo tưởng.
Khi bạn thấy một người xấu, đừng bị lừa dối bởi cái xấu của
người đó; tìm sâu hơn một chút và bạn sẽ thấy một người đẹp ẩn tại đó. Đừng bị
lừa dối bởi cái xấu. Cái xấu là trong diễn giải của bạn. Cuộc sống là đẹp đẽ,
chân lí là đẹp đẽ, sự tồn tại là đẹp đẽ - nó không biết đến cái xấu.
Và nó là đáng yêu, nó là giống cái và nó là linh thiêng.
Nhưng nhớ lấy, điều được ngụ ý bởi ‘linh thiêng’ không phải là điều thường được
nói tới - dường như nó là một thế giới khác, dường như nó là thiêng liêng ngược
với cái trần tục và phỉ báng, không. Tất cả đều linh thiêng. Không có cái gì có
thể được gọi là trần tục hay phỉ báng cả. Tất cả đều là thiêng liêng bởi vì tất
cả đều được tràn ngập với cái một.
Có chư Phật và phật! - phật-cây và phật-chó và phậtchim và
phật-đàn ông và phật-đàn bà - nhưng tất cả đều là chư Phật. Tất cả đều đang tiếp
diễn! Con người không phải là Thượng đế trong điêu tàn, con người là Thượng đế
đang hình thành, đang tiếp diễn.
Lời kinh thứ hai:
Avalokita, vị chúa tể linh thiêng và bồ tát,
đang đi vào trong quá trình sâu xa của trí huệ
mà đã vượt ra bên ngoài.
Ông ấy nhìn xuống từ trên cao
ông ấy chỉ thấy năm hợp phần,
và ông ấy thấy rằng trong sự hiện hữu riêng của chúng
chúng là trống rỗng.
Avalokita - Quán thế âm - là tên của Phật. Theo từng từ thì
điều này nghĩa là một người trông từ phía trên - avalokita - người nhìn từ phía
trên, người đứng tại trung tâm thứ bẩy, sahasrar, cái siêu việt, và nhìn từ đó.
Một cách tự nhiên, bất kì cái gì bạn thấy cũng đều bị tiêm nhiễm bởi quan điểm
của bạn, bị tiêm nhiễm bởi không gian bạn đang ở.
Nếu một người sống tại bậc thang thứ nhất - thân thể vật lí
- nhìn vào bất kì cái gì, người ấy cũng đều nhìn từ quan điểm đó. Một người sống
tại bậc thể chất thì chỉ nhìn vào thân thể bạn khi người ấy nhìn vào bạn, người
ấy không thể nào nhìn nhiều hơn thế, người ấy không thể thấy nhiều hơn thế. Viễn
kiến của bạn về mọi thứ phụ thuộc vào chỗ bạn đang nhìn.
Một người đang bị khuấy đảo về dục, bị cuốn hút về dục trong
tưởng tượng, chỉ nhìn từ quan điểm đó. Người đang đói cũng nhìn từ quan điểm
đó. Theo dõi cái ta của riêng mình mà xem. Bạn nhìn vào mọi thứ, và mỗi lần bạn
nhìn vào mọi thứ thì chúng lại dường như là khác nhau bởi vì bạn là khác. Buổi
sáng thế giới trông có đẹp hơn chút ít so với buổi tối. Buổi sáng bạn tươi tắn,
và buổi sáng bạn đến từ chiều sâu giấc ngủ lớn, giấc ngủ sâu, giấc ngủ không
mơ. Bạn đã nếm trải cái gì đó của siêu việt, mặc dầu là vô ý thức. Cho nên vào
buổi sáng mọi thứ trông có vẻ đẹp. Mọi người từ bi hơn, đáng yêu hơn; người ta
thuần khiết hơn trong buổi sáng, người ta hồn nhiên hơn trong buổi sáng. Vào
lúc chiều tối tới thì cũng những người đó sẽ trở nên kém hơn, khôn lỏi hơn, láu
cá hơn, thao túng, xấu xí, bạo hành, lừa dối. Đấy vẫn là cũng những con người ấy,
nhưng trong buổi sáng họ rất gần với cái siêu việt. Đến tối họ đã sống trong
cõi trần thế, trong trần gian, trong vật lí quá nhiều, và họ đã trở nên tập
trung ở đó.
Con người của hoàn hảo là người có thể di chuyển qua tất cả
bẩy luân xa này một cách dễ dàng - tức là con người của tự do - người không cố
định vào bất kì điểm nào, người giống như đồng hồ mặt trời: bạn có thể điều chỉnh
nó theo bất kì viễn kiến nào. Đó là điều được gọi là mukta, người thực sự tự
do. Người ấy có thể di chuyển theo mọi chiều vậy mà vẫn còn không bị chúng động
chạm tới. Thuần khiết của người ấy chẳng bao giờ mất, thuần khiết của người ấy
vẫn còn là của điều siêu việt.
Phật có thể tới và chạm vào thân thể bạn và chữa lành thân
thể bạn. Ông ấy có thể trở thành thân thể, nhưng đó là tự do của ông ấy. Ông ấy
có thể trở thành tâm trí và ông ấy có thể nói với bạn và giải thích mọi điều với
bạn, nhưng ông ấy chưa bao giờ là tâm trí. Ông ấy tới và đứng sau tâm trí, sử dụng
nó, giống hệt bạn lái ô tô - bạn chưa bao giờ trở thành ô tô cả. Ông ấy dùng tất
cả những bậc thang này, ông ấy là toàn bộ chiếc thang.
Nhưng quan điểm tối thượng của ông ấy vẫn còn là cái siêu việt.
Đó là bản tính của ông ấy.
‘Avalokita’ - Quán thế âm, có nghĩa là một người từ cõi bên
kia trông vào thế giới.
Avalokita, vị chúa tể linh thiêng và bồ tát, đang đi vào
trong quá trình sâu xa của trí huệ mà đã vượt ra bên ngoài Lời kinh nói trạng
thái này của phía bên ngoài không phải là thứ tĩnh tại. Nó là chuyển động, nó
là quá trình, giống dòng sông. Nó không phải là danh từ, nó là động từ. Nó cứ lộ
dần ra. Đó là lí do tại sao người Hindu gọi nó là hoa sen một nghìn cánh: ‘một
nghìn’ đơn giản có nghĩa là vô hạn, nó là biểu tượng của vô hạn. Cánh hoa họ chồng
lên cánh hoa kia, cánh hoa nọ tiếp cánh hoa kia cứ mở ra mãi, không chấm dứt.
Cuộc hành trình bắt đầu nhưng chưa bao giờ chấm dứt. Nó là cuộc hành hương vĩnh
viễn.
Avalokita, vị chúa tể linh thiêng và bồ tát, đang đi vào
trong quá trình sâu xa của trí huệ mà đã vượt ra bên ngoài Ông ấy tuôn chảy như
một dòng sông vào trong thế giới của bên ngoài. Ông ấy được gọi là vị chúa tể
linh thiêng và là bồ tát. Một lần nữa từ tiếng Phạn này cần phải được ghi nhớ.
Từ tiếng Phạn là iswara, được dịch thành ‘vị chúa tể linh thiêng’. ‘Iswara’ có
nghĩa là một người đã trở thành cực kì giầu có từ giầu có của riêng mình, giầu
có là từ bản tính riêng của người đó; không ai có thể lấy chúng đi được, không
ai có thể đánh cắp được chúng, chúng không thể nào bị mất đi. Tất cả mọi giầu
có mà bạn có thể bị mất, có thể bị đánh cắp, thì sẽ bị mất - một ngày nào đó
cái chết sẽ tới và sẽ lấy mọi thứ đi. Khi một ai đó đã đi tới viên kim cương
bên trong đó, cái vốn là bản thể của riêng người ta, thì cái chết không thể nào
lấy nó đi được. Cái chết chẳng liên can gì tới nó. Nó không thể nào bị đánh cắp,
nó không thể nào bị mất. Thế thì người ta đã trở thành iswara, thế thì người ta
đã trở thành vị chúa tể linh thiêng. Thế thì người ta đã trở thành bhagavan.
Từ bhagavan đơn giản có nghĩa là ‘người được ân huệ’. Thế
thì người ta đã trở thành một người được ân huệ. Bây giờ ân huệ của người ấy
vĩnh viễn là của người ấy; nó không phụ thuộc vào cái gì cả, nó là độc lập. Nó
không do bất kì cái gì gây nên cho nên nó không thể nào bị lấy đi. Nó là sẵn
có, nó là bản tính bên trong của người ta.
Và ông ấy được gọi là bồ tát. Bồ tát là một khái niệm rất đẹp
trong phật giáo. Bồ tát có nghĩa là một người đã trở thành vị Phật nhưng vẫn
lưu bản thân mình trong thế giới của không gian và thời gian - để giúp đỡ người
khác.
Bồ tát có nghĩa là ‘cái tinh tuý trong vị Phật’, sẵn sàng
rơi xuống và tan biến, sẵn sàng đi vào trong niết bàn. Không còn gì phải giải
quyết nữa, tất cả các vấn đề của người ấy đã được giải quyết. Người ấy không cần
phải ở lại đây nữa, nhưng người ấy vẫn ở lại đây. Không còn gì khác phải học ở
đây nữa, nhưng người ấy vẫn ở lại. Và người ấy lưu giữ mình dưới dạng thân thể,
dưới dạng tâm trí - người ấy lưu giữ toàn bộ chiếc thang. Người ấy đã vượt sang
cõi bên kia, nhưng người ấy vẫn lưu giữ toàn bộ chiếc thang - để giúp đỡ, xuất
phát từ lòng từ bi.
Chuyện kể rằng Phật đã tới cửa của điều tối thượng, niết
bàn. Cánh cửa đã mở, các thiên thần đang nhảy múa và ca hát đón chào ông ấy - bởi
vì hiếm khi xảy ra trong hàng triệu năm mới có một người trở thành vị Phật.
Những cánh cửa đó đã mở ra, và ngày đó tự nhiên là ngày lễ hội
trọng đại. Tất cả các vị cổ phật đều tụ hội, và có niềm vui lớn, hoa trút như
mưa, âm nhạc rộn rã, mọi thứ đều được trang hoàng lộng lẫy - đấy quả là một
ngày hội lớn.
Nhưng Phật không đi vào cổng. Và các vị cổ phật, tất cả đều
đứng khoanh tay, yêu cầu ông ấy, đòi hỏi ông ấy đi vào: “Sao ông ấy lại đứng
ngoài thế nhỉ?” Còn Phật tương truyền đã nói, “Chừng nào mà tất cả mọi người
khác đang đến sau tôi còn chưa vào, tôi sẽ không vào đâu. Tôi sẽ tự lưu mình ở
bên ngoài, bởi vì một khi tôi vào rồi thì tôi biến mất. Thế thì tôi sẽ không thể
nào giúp đỡ được những người này nữa. Tôi thấy hàng triệu người đang loạng choạng
mò mẫm trong bóng tối. Bản thân tôi cũng đã từng mò mẫm theo cùng cách ấy trong
hàng triệu kiếp. Tôi muốn giúp họ một tay. Xin đóng cửa lại. Khi mọi người đã tới
hết thì tôi sẽ gõ cửa, thế thì các bạn có thể đón tôi.”
Một câu chuyện thực hay... Điều này được gọi là trạng thái bồ
tát: người đã sẵn sàng tan biến nhưng vẫn lưu lại - trong thân thể, trong tâm
trí, trong thế giới, trong thời gian và không gian - để giúp người khác. Phật
nói: Thiền là đủ để giải quyết vấn đề của ông, nhưng vẫn còn thiếu cái gì trong
đó - từ bi. Nếu từ bi cũng có đó, thế thì ông có thể giúp cho người khác giải
quyết vấn đề của họ. Ông ấy nói: Thiền là vàng ròng; nó có hoàn hảo của riêng
nó. Nhưng nếu có từ bi thế thì vàng còn có hương thơm nữa - thế thì đấy là hoàn
hảo cao hơn, thế thì có một loại hoàn hảo mới, vàng với hương thơm. Vàng là đủ
cho chính nó - rất có giá trị - nhưng với từ bi thì thiền có hương thơm.
Từ bi giữ vị phật vẫn còn là bồ tát, chỉ ngay trên đường
biên. Đúng đấy, trong vài ngày, vài năm, người ta có thể lưu lại được, nhưng
không lâu - bởi vì dần dần mọi thứ bắt đầu tan biến theo cách của chúng. Khi bạn
không còn gắn bó với thân thể nữa, bạn trở nên chuyển khỏi chỗ đó. Đôi khi bạn
có thể tới, với nỗ lực. Bạn có thể dùng thân thể, với nỗ lực, nhưng bạn không
còn định cư ở đó nữa. Khi bạn không còn trong tâm trí, đôi khi bạn có thể dùng
nó, nhưng nó không còn vận hành như nó vẫn quen vận hành trước đây. Bạn không
còn theo đuôi nó. Khi bạn không dùng nó, nó nằm đấy: nó là cỗ máy, nó bắt đầu tụ
bụi.
Khi một người đã đạt tới bậc thứ bẩy thì, trong vài ngày,
trong vài năm, người ấy có thể dùng sáu bậc. Người ấy có thể quay lại và dùng
chúng, nhưng dần dần chúng bắt đầu gẫy. Dần dần chúng bắt đầu chết. Bồ tát có
thể ở đây chỉ trong một kiếp, nhiều nhất đấy. Thế rồi người đó phải biến mất, bởi
vì cỗ máy biến mất. Nhưng những người đã đạt tới đều phải cố gắng, hết mức họ
có thể cố được, để dùng thân-tâm để giúp những người vẫn còn trong thân thể và
tâm trí, để giúp những người có thể hiểu chỉ ngôn ngữ của thân thể và tâm trí,
để giúp đỡ cho các đệ tử.
Avalokita, vị chúa tể linh thiêng và bồ tát,
đang đi vào trong quá trình sâu xa của trí huệ
mà đã vượt ra bên ngoài
Ông ấy nhìn xuống từ trên cao
ông ấy chỉ thấy năm hợp phần,
và ông ấy thấy rằng trong sự hiện hữu riêng của chúng
chúng là trống rỗng.
Khi bạn nhìn từ điểm đó... Chẳng hạn, tôi vừa mới bảo các bạn
rằng tôi chào vị phật trong bạn. Đó là viễn kiến từ cõi bên kia: rằng tôi thấy
bạn là vị phật tiềm năng. Và một viễn kiến khác chỉ là tôi thấy bạn như cái vỏ
rỗng.
Cái bạn nghĩ bạn đang là thì chẳng là gì ngoài cái vỏ rỗng.
Ai đó nghĩ mình là đàn ông; đó là một ý tưởng rỗng tuếch. Tâm thức chẳng là nam
chẳng là nữ. Ai đó nghĩ mình có thân thể rất đẹp, người ấy đẹp đẽ, mạnh mẽ, thế
này thế nọ - đó là một ý tưởng rỗng tuếch, chỉ bản ngã lừa bạn thôi. Ai đó nghĩ
mình biết nhiều - điều đó cũng là vô nghĩa. Cỗ máy của người đó đã tích luỹ kí ức
và người đó bị kí ức lừa dối. Đấy tất cả đều là những vật rỗng không.
Cho nên khi thấy từ cái siêu việt, thì một mặt tôi thấy bạn như
chư phật đang còn trong nụ, mặt khác tôi thấy bạn chỉ như cái vỏ rỗng.
Phật đã nói rằng con người bao gồm năm yếu tố, năm uẩn
skandhas, tất cả đều là trống rỗng. Và bởi việc tổ hợp của năm yếu tố này, một
sản phẩm phụ nảy sinh được gọi là bản ngã, cái ta. Nó cũng hệt như một chiếc đồng
hồ vận hành: nó cứ tích tắc hoài. Bạn có thể lắng nghe và tiếng tích tắc có đó;
bạn có thể mở đồng hồ ra, bạn có thể tháo rời tất cả các bộ phận để xem tiếng
tích tắc từ đâu tới. Tiếng tích tắc từ đâu tới? Bạn sẽ chẳng tìm thấy ở đâu cả.
Tiếng tích tắc là sản phẩm phụ. Nó chỉ là việc tổ hợp của vài thứ. Vài thứ vận
hành với nhau đã tạo ra tiếng tích tắc.
Đó là cái ‘tôi’ của bạn - năm yếu tố vận hành cùng nhau tạo
ra tiếng tích tắc được gọi là ‘tôi’. Nhưng nó là trống rỗng, nó chẳng có gì
trong đó cả. Nếu bạn cứ đi tìm cái gì bản chất trong đó thì bạn sẽ không thấy
được.
Đây là một trong những trực giác, sáng suốt sâu sắc nhất của
Phật: rằng cuộc sống là trống rỗng, rằng cuộc sống như chúng ta biết là trống rỗng.
Và cuộc sống cũng đầy tràn nữa, nhưng chúng ta không biết gì về điều đó cả.
Từ cái trống rỗng này bạn phải đi đến cái tràn đầy, nhưng
cái tràn đầy đó là không thể nào quan niệm nổi ngay bây giờ - bởi vì cái tràn đầy
đó từ trạng thái này sẽ chỉ trông như cái trống rỗng. Từ trạng thái đó cái tràn
đầy trông như trống rỗng - vua trông như kẻ ăn xin; người của hiểu biết, người
có tri thức, trông như thằng đần, dốt nát.
Một câu chuyện nhỏ.
Một người linh thiêng chấp nhận một học trò và nói với cậu
ta, “Một việc tốt là bây giờ anh cố gắng viết ra tất cả hiểu biết của mình về
cuộc sống tôn giáo và về điều gì đã đem anh tới nó.”
Cậu học trò ra đi và bắt đầu viết. Một năm sau cậu quay lại
với thầy và nói, “Con đã làm việc rất vất vả về việc này, và mặc dầu nó còn lâu
mới hoàn chỉnh được, đây là những lí do chính cho cuộc chiến đấu của con.”
Thầy đọc công trình này, hàng nghìn từ, thế rồi nói với cậu
thanh niên, “Bài viết rất có lí và phát biểu rõ ràng, nhưng nó vẫn còn dài. Cố
gắng viết ngắn lại một chút.” Cho nên chàng tập sự lại ra đi và sau năm năm anh
ta quay lại với một trăm trang giấy.
Thầy mỉm cười, và sau khi đã đọc nó ông ấy nói, “Bây giờ anh
đang tiếp cận đúng tới tâm điểm vấn đề. Suy nghĩ của anh đã sáng tỏ và mạnh mẽ.
Nhưng nó vẫn còn hơi dài; cố gắng cô đọng nó lại, con ta.”
Anh chàng tập sự lại buồn bã ra đi, vì anh ta đã lao động vất
vả để đạt tới điều bản chất. Nhưng sau mười năm anh ta quay lại, và cúi lạy trước
thầy trao cho thầy có vài trang giấy và nói, “Đây là cốt lõi niềm tin của con,
cốt lõi cuộc đời con, và con cầu xin ân huệ của thầy về việc đã đưa con tới
nó.”
Thầy đọc xong chậm rãi và từ tốn nói: “Đây mới thực sự kì diệu,”
ông nói, “đơn giản và đẹp đẽ, nhưng nó vẫn còn chưa hoàn hảo. Con cố gắng đạt tới
sự sáng tỏ cuối cùng.”
Và khi thầy đã gần chết và chuẩn bị cho sự kết thúc của
mình, cậu học trò quay lại với thầy lần nữa, và quì xuống trước thầy để nhận ân
huệ, trao cho thầy chỉ một tờ giấy mà trên đó chẳng viết gì cả.
Thế rồi thầy đặt tay lên đầu anh bạn và nói, “Bây giờ... bây
giờ con đã hiểu.”
Từ viễn kiến siêu việt đó, cái bạn có là cái trống rỗng. Từ
viễn kiến của bạn, từ viễn kiến dễ bị kích động của bạn, cái tôi đang có là cái
trống rỗng.
Phật trông trống rỗng - chỉ là cái trống rỗng thuần khiết -
đối với bạn. Bởi vì các ý tưởng của bạn, bởi vì níu bám của bạn, bởi vì sở hữu
của bạn về mọi thứ, Phật trông trống rỗng. Phật là tràn đầy: bạn mới trống rỗng.
Và viễn kiến của ông ấy là tuyệt đối; viễn kiến của bạn là rất
tương đối.
Lời kinh nói:
Avalokita, vị chúa tể linh thiêng và bồ tát,
đang đi vào trong quá trình sâu xa của trí huệ
mà đã vượt ra bên ngoài
Ông ấy nhìn xuống từ trên cao
ông ấy chỉ thấy năm hợp phần,
và ông ấy thấy rằng trong sự hiện hữu riêng của
chúng
chúng là trống rỗng.
Cái trống rỗng là mấu chốt của Phật giáo - shunyata. Chúng
ta sẽ đi vào trong nó ngày càng nhiều khi chúng ta đi vào những lĩnh vực sâu
hơn của Tâm Kinh. Thiền về những lời kinh này đi - thiền bằng tình yêu, bằng
thông cảm, không phải bằng logic và lập luận. Nếu bạn đi tới những lời kinh này
bằng logic và lập luận, bạn sẽ giết chết linh hồn của chúng. Đừng mổ xẻ chúng.
Cố gắng hiểu chúng như chúng vẫn thế, và đừng đem tâm trí bạn vào - tâm trí bạn
sẽ là can nhiễu. Nếu bạn có thể nhìn vào những lời kinh này không qua tâm trí
mình, thì sáng tỏ lớn sẽ xảy ra cho bạn.
Đủ cho hôm nay.
Xem tiếp Chương2 - Quay về Mục lục